Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

Galati 2.1-10: "Không có một chỗ nứt nào trong cái nền của chúng ta"



Tự do thực – Galati
Không có một chỗ nứt nào trong cái nền của chúng ta
Galati 2.1-10
Trước khi gia đình tôi chuyển sang Amarillo cách đây gần 9 năm, chúng tôi sống ở trung tâm Dallas-Ft. Worth Metroplex. Dallas County nằm ở giữa một khu vực ai cũng biết là "Vùng thảo nguyên Blackland". Vùng nầy có nhiều đất sét đen trồng lúa rất trúng mùa nhưng hay gây hại cho các nền toà nhà cao tầng. Vào các mùa ẩm ướt, đất rất lầy lội, hay dính và nhớp nhúa. Vào các mùa khô, đất cứng ngắc giống như xi măng và nứt nẻ đủ để nuốt mấy quả banh golf. Hai thái cực nầy của đất khi co lại và khi nở ra thường gây cho loại nền nhà bằng bê tông phải nứt ra. Khi nền nhà bị nứt, bức tường cũng nứt. Nếu những đánh giá sửa chửa không đúng, cả ngôi nhà sẽ sụp xuống. Kết quả là, người chủ nhà cẩn thận kiểm tra nền nhà của họ, sử dụng nhiều ống rút nước để giữ cho cấp độ ẩm ướt sao cho đừng gây hại nền nhà.
Khi Chúa Jêsus phán với Phierơ ở Mathiơ 16.18: "Ta sẽ lập Hội thánh ta trên đá nầy", tôi tin Ngài đang phán về Tin lành, lời xưng nhận của Phierơ nói Ngài là Đấng Mêsi. Tương tự, Kinh Thánh phán trong Êphêsô 2.20 rằng Hội thánh được "dựng lên trên nền của các sứ đồ cùng các đấng tiên tri, chính Đức Chúa Jêsus Christ là đá góc nhà". Chúng ta là ai và chúng ta tin điều gì khi một Hội thánh ngày nay được dựng trên hòn "đá" Tin lành, là sự dạy của các vị sứ đồ. Nếu có những đường nứt trong giáo lý của các sứ đồ, thế thì Hội thánh không thể đứng vững vàng cho được.
Trong phần nghiên cứu thơ Galati của chúng ta, chúng ta học biết rằng sứ đồ Phaolô đã sáng lập ít nhất là bốn Hội thánh trong khu vực xứ Galati. Sau khi ông rời khỏi họ, các giáo sư giả đã mò vào trong rồi khởi sự dạy "một tin lành khác" (1.6). Họ dạy người Galati rằng người nào được cứu bởi tin theo Chúa Jêsus phải THÊM phép cắt bì vào, thêm tất cả luật lệ vào, thêm những nghi thức và quy tắc của Cựu Ước vào nữa. Các giáo sư giả, được gọi là tín đồ Do thái giáo cứ nhất mực dạy rằng người ta được cứu là do hoàn thành. Phaolô luận rằng chúng ta được cứu cho do tin mà thôi. Còn nhiều nữa, các tín đồ Do thái giáo bảo những Cơ đốc nhân thành Galati rằng 12 vị sứ đồ nguyên thủy ở thành Jerusalem đã nhất trí với họ, rằng Phaolô là kẻ đến muộn, là một con buôn không có môn bài, là kẻ đã vặn cong sự dạy của 12 sứ đồ nguyên thủy.
Hãy đặt mình vào chỗ của người thành Galati xem. Phaolô đã đưa ra trường hợp phải lẽ về địa vị sứ đồ của ông cùng lẽ thật tin lành mà ông đang rao giảng. Nhưng thắc mắc phát sinh không thể tránh được: “Phải chăng có mâu thuẫn giữa vòng các sứ đồ?” Phải chăng họ chia rẽ, rao giảng hai sứ điệp khác nhau? Nếu sứ đồ nầy rao giảng tin lành nầy. Còn sứ đồ kia rao giảng một tin lành khác, thế thì cái nền của Hội thánh đã bị nứt nẻ và cả cấu trúc sẽ bị sụp đổ mất.
Mặc dù đây là một phân đoạn Kinh Thánh rất khó (Lightfoot gọi phân đoạn nầy là "văn từ bị phá sản"), khi chúng ta khảo sát, chúng ta sẽ biết được các vị sứ đồ đã nhất trí về tin lành, cái nền của Hội thánh không bị nứt nẻ và bởi ân điển của Đức Chúa Trời địa ngục sẽ không thể thắng hơn chúng ta được.
I. Phần thử nghiệm của Tít. Được chấp nhận (các câu 1-5).
A. Phaolô qua thành Jerusalem (câu 1).
Phaolô nói với chúng ta trong 1.18 rằng đúng "ba năm" sau khi ông trở thành Cơ đốc nhân, ông đã "lên thành Jerusalem đặng làm quen với Sê-pha". Ông đã ở lại với Phierơ trong "mười lăm ngày". Ông cũng gặp "Giacơ, anh em của Chúa".
Giờ đây Phaolô cho chúng ta biết rằng "mười lăm năm" đã trôi qua trước khi ông "lại lên thành Jerusalem". Trong khoảng thời gian 17 năm, Phaolô vốn chẳng có một cuộc tiếp xúc nào với các vị sứ đồ khác. Công Vụ các Sứ Đồ 11.27-30 cho thấy rằng Phaolô và Banaba đã thực hiện một chuyến hành trình nhanh qua thành Jerusalem, trước là để giao một tặng phẩm về ủng hộ tài chính cho các tín đồ ở đó vì cớ nạn đói lớn lắm. Ngay thời điểm đó cũng chẳng thấy nhắc gì tới việc ông gặp gỡ các vị sứ đồ khác. Trong thời gian 17 năm nầy, Phaolô đã đi khắp nơi lo rao giảng Tin lành, làm ra nhiều dấu lạ và gây dựng nhiều Hội thánh.
Vấn đề, ấy là Phaolô đã rao giảng Tin lành suốt cả khoảng thời gian nầy mà không có sự đồng ý hay giám sát của 12 sứ đồ nguyên thủy tại thành Jerusalem. Ông nói trong 1.12: "vì tôi không nhận và cũng không học Tin Lành đó với một người nào, nhưng đã nhận lấy bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Jêsus Christ". Những người theo giáo Giu-đa tuyệt đối sai khi nói Phaolô đã sao chép tin lành từ các vị sứ đồ khác, vì ông đã không dành thì giờ chi hết với họ trong 17 năm trời.
Mặc dù có một số khác biệt về dư luận giữa vòng các giáo sư dạy Kinh Thánh, sự việc cho thấy sự cố Phaolô mô tả ở đây trong Galati 2 tương xứng trực tiếp với phần bàn bạc ở thành Jerusalem như đã được mô tả trong Công Vụ các Sứ Đồ 15. Thực vậy, chúng ta hãy quay sang chỗ nầy và đọc Công Vụ các Sứ Đồ 15.1-5.
Trở lại phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta trong Galati 2.1, Phaolô cho chúng ta biết rằng khi ông "lại lên thành Jerusalem", ông đã đem "Banaba và Tít cùng đi nữa". Banaba, "con trai của sự yên ủi" là bạn thiết của Phaolô và là người trợ giúp trong việc rao giảng Tin lành. Ông đã cùng đi với Phaolô trên chuyến hành trình truyền giáo đầu tiên và giúp đỡ ông thiết lập các Hội thánh trong xứ Galati.
"Tít" cũng cùng đi với Phaolô. Phaolô gọi Tít là "bạn bè tôi, và là người cùng làm việc với tôi" ở trong II Côrinhtô 8.23. Trong thư ông gửi cho Tít, ông gọi Tít là "con thật ta trong đức tin chung" (Tít 1.4). Không giống với nhiều Cơ đốc nhân đầu tiên, Tít chẳng có một lai lịch nào trong Do thái giáo cả. Vì ông không phải là người Do thái, ông chưa hề chịu phép cắt bì. Theo Công Vụ các Sứ Đồ 15.2, các giáo sư giả nói: "Nếu các ngươi chẳng chịu phép cắt bì theo lễ Môi-se, thì không thể được cứu rỗi". Vì lẽ đó Tít sẽ là ca thử nghiệm trước mặt các sứ đồ ở tại thành Jerusalem. Tít đã đến với Đấng Christ là do tin chớ không phải do thành tựu.
B. Phaolô gặp gỡ các vị sứ đồ khác (câu 2).
Phaolô nói ông "vâng theo lời tỏ ra mà lên đó". Ông không đến với các vị sứ đồ khác vì ông có vấn đề phải minh chứng, mà vì Đức Chúa Trời buộc ông phải lên đó. Tôi tin rằng khi Phaolô và Banaba cầu nguyện với các cấp lãnh đạo của Hội thánh An-ti-ốt về vấn đề nầy, Đức Thánh Linh đã tỏ ra chương trình nầy cho họ y như Ngài đã tỏ ra trong chuyến hành trình truyền giáo đầu tiên của họ (Công Vụ các Sứ Đồ 15.2; 13.2). Đây là trường hợp cho thấy phương thức Hội thánh sẽ hoạt động. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, Đức Thánh Linh khẳng định trong tấm lòng của chúng ta mọi điều chúng ta cần phải lo làm.
Phaolô nói rằng khi ông lên thành Jerusalem, ông "phô bày Tin Lành mà tôi đã giảng trong người ngoại đạo ra cho anh em". "Phô bày" có nghĩa là "đề ra, đặt trước mặt". J.B. Phillips dịch cụm từ nầy: "Tôi đã trình ra phần chú giải đầy đủ về tin lành mà tôi đã giảng giữa vòng dân Ngoại". Nói cách khác, Phaolô đã đưa ra một giáo trình trọn vẹn về mọi điều mà Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho ông biết về ơn cứu rỗi, nghĩa là người ta được cứu bởi ân điển nhờ đức tin mà chẳng phải thêm bất kỳ một công việc nào của con người, kể cả chịu phép cắt bì.
Phaolô cho chúng ta biết rằng trước khi có sự nghe giảng vấn đề nầy trong nhà thờ, ông đã "phô bày riêng cho những kẻ có danh vọng hơn hết". Nghĩa là, trước tiên ông đã giảng cho các cấp lãnh đạo, những vị sứ đồ và các trưởng lão Hội thánh nghe trong một cuộc gặp gỡ riêng.
Lý lẽ của ông chắc chắn đến nỗi "kẻo sự chạy của tôi trước kia và bây giờ hóa ra vô ích chăng". Phaolô không ở trong chỗ không chắc về tin lành mà ông đã rao giảng. Ông không "nhận tin lành ấy từ con người", chẳng có ai "dạy" tin lành đó cho ông cả. Mà đúng hơn, tin lành ấy đã đến trực tiếp với ông "bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Jêsus Christ". Ông không gặp gỡ các vị sứ đồ để làm cho sự giảng đạo của mình ra chính đáng. Ông muốn biết chắc rằng các giáo sư giả không làm cho họ phải lạc sai. Ông muốn biết chắc rằng ông và họ đều nhất trí trên cùng một tin lành. Nếu họ ở trong mối giao thông với những tín đồ Do thái giáo, ông sợ rằng phần nhiều người mới trở lại đạo sẽ dễ dàng tẻ tách ra khỏi tin lành thực. Sử dụng phép loại suy nói tới một vận động viên chạy đua, ông sợ công việc của ông nơi họ sẽ rơi vào chỗ "luống nhưng".
C. Phaolô biện hộ cho Tít trước mặt các giáo sư giả (các câu 3-4).
Một lần nữa, đây là lối nói rất khó khăn cho việc dịch thuật và giải thích. Có lẽ trong khi viết, Phaolô đã cảm động đến nỗi ông sử dụng văn phạm rất phức tạp và viết ra nhiều câu hãy còn dang dở.
Bất chấp về cách hành văn, ý nghĩa của Phaolô rất rõ ràng. Trong cuộc gặp gỡ nầy, Phaolô đã giới thiệu Tít như trường hợp thử nghiệm của ông. Ông đặt Tít trước mặt các vị sứ đồ cùng những trưởng lão như một trường hợp bông trái của chức vụ ông. Tít là một Cơ đốc nhân chơn thật, là người chưa chịu phép cắt bì. Tít là một minh chứng sống cho thấy một người được cứu bởi đức tin mà không cần có các nghi thức, luật lệ và giáo điều của Cựu Ước. Trong cuộc gặp gỡ nầy với những vị sứ đồ cùng các cấp lãnh đạo, Phaolô nói: "Dầu Tít, kẻ cùng đi với tôi, là người Gờ-réc, cũng không bị ép phải cắt bì". Chẳng một ai trong số họ dám khẳng định rằng Tít cần phải chịu cắt bì mới được cứu rỗi.
Kế đó, Phaolô nói trong câu 4: "Chúng tôi đã làm như vậy, vì cớ mấy người anh em giả…". "Anh em giả" ra từ cụm từ cũng được dịch là "các tín đồ giả", "những Cơ đốc nhân giả hiệu" "các Cơ đốc nhân không thành thật". Tôi thích bản dịch Phillips: "Nhưng chẳng có ai dám khẳng định rằng Tít, bạn tôi, dù anh ấy là người Hy lạp, cần phải chịu phép cắt bì. Thực vậy, chẳng có ai nói gì trừ ra một số Cơ đốc nhân không thành thật có mặt, họ đã tìm cách len lỏi vào buổi nhóm của chúng tôi hầu dò xét sự tự do mà chúng tôi có trong Đức Chúa Jêsus Christ, rồi kế đó tìm cách buộc chúng tôi chặt vào các luật lệ và nghi thức".
Luca ghi lại phần ngắt quảng nầy ở Công Vụ các Sứ Đồ 15.5: "Nhưng có mấy kẻ về đảng Pha-ra-si đã tin đạo, đứng dậy nói rằng phải làm phép cắt bì cho những người ngoại, và truyền họ phải tuân theo luật pháp Môi-se".
Phaolô nói họ đã "lẻn vào trong". Một số học giả tin người Pharisi có những đại biểu bí mật, len lỏi vào trong các Hội thánh đầu tiên để làm cho họ phải sai lạc rồi đưa họ về lại với Do thái giáo. Phaolô nói họ "rình xem sự tự do mà chúng tôi được trong Đức Chúa Jêsus Christ, đặng bắt chúng tôi làm tôi mọi".
"Tôi mọi"
là một từ ngữ rất mạnh mẽ có ý nói tới tình trạng nô lệ. Trong "Đức Chúa Jêsus Christ" các tín đồ đều có "sự tự do". Chúng ta đã được giải phóng ra khỏi việc tuân giữ luật pháp Cựu Ước, khỏi những truyền thống do con người lập ra, khỏi các nghi thức và điều lệ. Luật pháp duy nhứt của chúng ta là luật pháp của Thánh Linh. Roma 8.2 chép: "vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết". Roma 7.6 chép: "Nhưng bây giờ chúng ta đã chết về luật pháp, là điều bắt buộc mình, thì được buông tha khỏi luật pháp đặng hầu việc Đức Chúa Trời theo cách mới của Thánh Linh, chớ không theo cách cũ của văn tự". II Côrinhtô 3.17 chép: "Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó". Giăng 8.36 chép: "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do".
Phaolô đã chiến đấu cho sự tự do nhiều lắm, giống y như những người lính trên bất kỳ chiến trường nào. Ông phải nắm bắt cho kỳ được sự tự do. Ông nói với người thành Galati ở câu 5 trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta: "Chúng tôi không nhường họ một giây phút nào". Dường như đã có một sự tranh cãi lâu dài, mở rộng. Phaolô đã không chịu nhượng bộ một giây phút nào trước những đòi hỏi thiên về với luật pháp của những người theo giáo Giu-đa.
Tại sao không chịu nhượng bộ chứ? Tại sao không bắt Tít phải chịu phép cắt bì? Há Timôthê về sau đã chịu phép cắt bì đó sao? Phải, nhưng đã có một tình huống hoàn toàn khác nhau. Phaolô không chịu nhượng bộ hầu cho "lẽ thật của Tin Lành được vững bền trong anh em". Ông đã nhượng bộ về những vấn đề nhỏ và các phương pháp truyền giáo, nhưng về tin lành thì không đâu!
II. Sự giảng đạo của Phaolô. Được tán thưởng (các câu 6-10).
A. Các sứ đồ ở tại thành Jerusalem chẳng thêm một điều gì vào sứ điệp của Phaolô (câu 6).
Trong câu 2 Phaolô đề cập tới các vị sứ đồ nguyên thủy là "những kẻ có danh vọng hơn hết". Ở đây trong câu 6, ông gọi họ là "những kẻ mà người ta tôn trọng lắm". Ở cái nhìn đầu tiên, dường như Phaolô đang đánh giá thấp họ, đang hạ thấp họ xuống. Ngược lại, Phaolô đã tôn trọng những người nầy và chức vụ của họ hoặc ông sẽ không đến với họ để định liệu thắc mắc nầy.
Mặc dù 12 người nầy về mặt cá nhân họ đã được Chúa Jêsus biệt riêng ra để làm sứ đồ, Phaolô cũng đã được Đấng Christ lựa chọn để thi hành cùng một chức vụ đó. Ông vốn không cần sự tán thưởng hay khẳng định của họ, và trong ý nghĩa ấy "trước kia là kẻ thể nào, thì chẳng can dự gì" với ông.
Những tín đồ Do thái giáo, các vị giáo sư giả thường hạ Phaolô xuống thấp vì ông không phải là một trong 12 sứ đồ nguyên thủy. Phaolô nói: "Đức Chúa Trời không tây vị ai hết". Chỉ vì họ từng ăn ở với Chúa Jêsus, điều nầy cũng chẳng làm cho họ được lỗi lạc hơn Phaolô đâu.
Phaolô không kiêu căng, mà còn chơn thật, khiêm nhường nữa. Ông nói trong I Timôthê 1.15: "Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; trong những kẻ có tội đó ta là đầu". Ông nói trong I Côrinhtô 15.9: "Vì tôi là rất hèn mọn trong các sứ đồ, không đáng gọi là sứ đồ, bởi tôi đã bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời".
Phaolô nói dứt khoát rằng các vị sứ đồ nguyên thủy nầy, họ được xem trọng trong ánh mắt của những tín đồ Do thái giáo, "những kẻ đó dầu tôn trọng lắm" họ "chẳng thêm gì" vào sứ điệp của Phaolô. Họ chẳng thêm gì vào tri thức về Tin lành của Phaolô hay thẩm quyền giảng đạo của ông. Ông đã giảng cùng một tin lành đó trong 17 năm trời mà chẳng cần tới họ. Sau cùng, khi ông "truyền đạt" mọi điều mà ông đã giảng cho họ biết, không có thêm hay chỉnh đốn điều gì hết.
Hãy đóng ngoặc đơn điều Phaolô nói: "Tin lành mà tôi rao giảng cho quí vị nghe chẳng có gì thay đổi cả. Tôi không nhận tin lành ấy từ bất kỳ người nào, mà nhận lãnh trực tiếp từ Đức Chúa Jêsus Christ. Sau 17 năm, khi tôi chia sẻ các tín điều của mình với các vị sứ đồ nguyên thủy, họ chẳng thấy có gì cần kíp để thêm vào hay thay đổi bất cứ một điều nào. Họ đã nhất trí với tôi là sự cứu rỗi không phải do thành tựu mà là do tin đấy thôi".
B. Các sứ đồ ở tại thành Jerusalem đã công nhận chức vụ sứ đồ của Phaolô (các câu 7-8).
Phaolô nói: "Trái lại…" thay vì thêm vào hay chỉnh đốn sự dạy của ông, không những họ "chẳng thêm gì" cho ông, mà họ còn công nhận thẩm quyền của ông là một vị sứ đồ nữa.
Ông cho chúng ta biết rằng họ đã "thấy" hay đã công nhận "sự giảng Tin Lành cho kẻ không chịu phép cắt bì đã giao cho tôi, cũng như sự giảng Tin Lành cho người chịu phép cắt bì đã giao cho Phi-e-rơ vậy". Cũng một phương thức ấy, Phierơ là sứ giả đặc biệt của Đức Chúa Trời chuyên rao giảng tin lành giữa vòng người Do thái, họ đã công nhận Phaolô là sứ giả đặc biệt của Đức Chúa Trời chuyên rao giảng Tin lành giữa vòng dân Ngoại.
Chúng ta hãy quay trở lại với câu chuyện tương tự trong Công Vụ các Sứ Đồ 15.6-29. Lần đầu tiên Phierơ đứng trước mặt "các sứ đồ cùng những trưởng lão" rồi phân phát một sứ điệp đầy quyền năng trong sự nhất trí với Phaolô. Hãy đọc lại câu 12: "Cả hội đồng đều lẳng lặng, nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những phép lạ dấu kỳ mà Đức Chúa Trời đã cậy mình làm ra giữa người ngoại". Không một người nào đứng về phía các giáo sư giả hết! Giacơ, vị Mục sư trưởng của Hội thánh Jerusalem khi ấy đứng dậy trưng dẫn lời tiên tri trong Cựu Ước. Phần tóm tắt của ông được ghi lại ở câu 19: "Vậy, theo ý tôi, thật chẳng nên khuấy rối những người ngoại trở về cùng Đức Chúa Trời". Câu 22 chép: "Kế đó, các sứ đồ và trưởng lão cùng cả Hội thánh bèn quyết định…". Ai nấy đều ở trong sự nhất trí.
Còn nữa, một bức thư đã được viết gửi cho các Hội thánh cho biết các tín đồ giáo Giu-đa đang rao truyền sự dạy giả dối của họ. Hãy chú ý một lần nữa các câu 24-26: "Bởi từng nghe có một vài người trong vòng chúng ta, chẳng lãnh mạng lịnh nào nơi chúng ta, tự lấy lời mình khuấy rối (họ bảo: `các ngươi phải chịu phép cắt bì và giữ luật pháp’, và biến loạn lòng các ngươi nữa, nên chúng ta đồng lòng quyết ý chọn những người thay mặt sai đi cũng kẻ rất yêu dấu của chúng ta là Ba-na-ba và Phao-lô, mà đến nơi các ngươi; hai người nầy vốn đã liều thân vì danh Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta".
Các vị sứ đồ và cả Hội thánh Jerusalem đều đồng ý với Phaolô. Sự cứu rỗi là do tin chớ không phải do thành tựu. Phaolô và chức vụ của ông được họ xem là “rất yêu dấu”. Họ đã đồng ý và định liệu một lần đủ cả, họ đã rao giảng cùng một sứ điệp, và không có một chỗ nứt nào trong cái nền của Hội thánh.
C. Các sứ đồ ở tại thành Jerusalem trao tay hữu giao kết với Phaolô (câu 9).
Trở lại với phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, ở câu 9, Phaolô nói: "Gia-cơ, Sê-pha [Phierơ], Giăng là những người được tôn như cột trụ [một cụm từ của người Do thái có ý nói “các vị giáo sư lỗi lạc”] trao tay hữu giao kết với chúng tôi, tức là Ba-na-ba và tôi, hầu cho chúng tôi đi đến cùng dân ngoại, còn các người ấy thì đến cùng những kẻ chịu phép cắt bì [những người Do thái]".
Khi tôi trưởng thành, Hội thánh chúng tôi đã trao "tay hữu giao kết" với từng tân tín hữu. Khi có người tham gia vào Hội thánh, cả hội chúng sẽ đưa từng người một ra khỏi hàng ghế của họ đến tại bàn thờ để bắt tay với người mới đến và hoan nghênh họ (nam hay nữ) bước vào mối giao thông của Hội thánh.
Có một ý nghĩa quan trọng hơn ở đây. Phaolô không những đã ở trong sự hài hoà về giáo lý, mà còn hài hoà cá nhân với 12 sứ đồ nguyên thủy nữa, đặc biệt với Giacơ, Phierơ và Giăng. Giữa Phaolô, Phierơ, Giacơ và Giăng, họ đã được Đức Chúa Trời đại dụng để viết ra 21 trong 27 sách trong Tân Ước! Họ không sử dụng cái bắt tay truyền thống của tây phương, mà sử dụng vòng tay ôm siết chặt theo cung cách đông phương làm biểu tượng cho tình bạn, cho sự cộng tác và tin cậy.
Những tín đồ Do thái giáo dạy giả dối không có được một chân để đứng vững được. Phaolô đã ở trong sự hiệp một, trong mối giao kết với các sứ đồ ở tại thành Jerusalem. Họ hiệp nhau công bố cùng một Tin lành cho rằng chúng ta được cứu không phải bởi việc làm mà bởi đức tin, không phải bởi thành tựu mà là do tin mà thôi. Chúng ta không thể thêm một điều chi vào ân điển của Đức Chúa Trời.
D. Các sứ đồ ở tại thành Jerusalem không dành cho Phaolô một sự chỉnh đốn nào, mà họ chỉ dặn dò ông thôi (câu 10).
Thay vì chỉnh đốn sự giảng dạy của Phaolô, họ chỉ đưa ra một lời dặn dò cho ông. Phaolô nói: "Các người ấy chỉ dặn dò tôi phải nhớ đến kẻ nghèo nàn, là điều tôi cũng đã ân cần làm lắm". Hãy chú ý có 3 hàm ý trong lời dặn dò nầy. Thứ nhứt, lời dặn dò rất thực tế, chớ không phải chỉ là giáo lý xuông. Thứ hai, lời dặn dò không phải là một mạng lịnh. Thứ ba, lời dặn dò của họ không phải là cái gì mới mẻ. Họ "chẳng thêm một điều gì" về giáo lý hay về điều thực tế. Phaolô đã thực hiện rồi một chuyến đi lên thành Jerusalem để cứu trợ cho các Cơ đốc nhân nghèo ở đó (Công Vụ các Sứ Đồ 11.27-30).
Thật là quan trọng khi lưu ý là chúng ta vẫn phải "ân cần" "nhớ tới người nghèo", đặc biệt là các Cơ đốc nhân tín hữu của chúng ta. Hết thảy chúng ta đều có trách nhiệm phải chịu khó làm việc. II Têsalônica 3.10 chép: "nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa". Tuy nhiên, có người chịu khó làm việc hay không có khả năng làm việc, họ thực sự cần sự giúp đỡ của chúng ta. I Giăng 3.17 chép: "Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đang cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được!"
III. Ba lẽ thật vô hạn dành cho việc bảo quản một cái nền vững chắc.
Quí vị có thể suy nghĩ: "Mục sư ơi, chuyện nầy thì chẳng có gì đâu, nhưng tại sao phải đi sâu vào một bài học lịch sử như vậy chứ? Chuyện Phaolô thăm viếng thành Jerusalem cách đây 1900 năm có tác dụng gì vào đời sống của tôi hôm nay chứ? Việc nầy thực tế có ý nghĩa gì với tôi chứ?" Tôi rất vui khi quí vị hỏi han như thế! Chúng ta luôn luôn đưa ra những thắc mắc đó khi chúng ta nghiên cứu Kinh Thánh. Hãy chú ý ba lẽ thật vô hạn từ phân đoạn nầy.
A. Thứ nhứt, chỉ có một tin lành duy nhứt và tin lành đó không thay đổi.
Tất cả các sứ đồ, hết thảy Tân Ước đều nhất trí trên một Tin lành. Phaolô dạy trong 1.6-10 rằng không có tin lành nào "khác" trừ ra những sự xuyên tạc, bóp méo tin lành chơn thật. Có lẽ câu nói súc tích nhất về các tin tức tốt lành là Êphêsô 2.8-9: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình". Chúng ta được cứu bởi ân điển, chớ không phải bởi việc làm. Chúng ta được cứu bởi tin chớ không phải bởi sự thành tựu. Chúng ta được cứu bởi ân điển mà chẳng thêm vào một điều gì khác, không phải thêm phép cắt bì, không phải tuân giữ luật pháp, không phải bởi việc chịu phép báptêm, không phải bởi việc trở thành một thuộc viên trong Hội thánh, không phải bởi việc nhận lãnh một ơn phước hay một ân tứ thuộc linh nào đó. Sự cứu rỗi chỉ có do ân điển của Đức Chúa Trời mà thôi.
Không có một chỗ nứt nào trong cái nền của Hội thánh. Mỗi sứ đồ đều có phong cách và nhân cách riêng của mình. Mỗi người đều có tầm quan trọng riêng, vì họ phải lo liệu với các phạm vi khác nhau và nhiều hạng người khác nhau nữa. Dầu vậy, chỉ có một tin lành, một đức tin mà thôi: "là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi" (Giu-đe 3), một bộ giáo lý đã được công nhận rồi. Phaolô nói trong I Côrinhtô 15.11: "Ấy vậy, dầu tôi, dầu các người khác, đó là điều chúng tôi giảng dạy, và là điều anh em đã tin". Có nhiều người khác nhau. Chỉ có một Tin lành. Kết quả y như nhau.
Tin lành ấy chính là tin lành của ngày hôm nay. John R.W. Stott viết: "Nếu chỉ có một tin lành trong Tân Ước, chỉ có một tin lành cho Hội thánh mà thôi. Tin lành đã không thay đổi với nhiều thế kỷ đã thay đổi. Trong trường hợp tin lành đó được giảng cho người trẻ hay người già, cho đông phương hay cho tây phương, cho người Do thái hay cho người dân Ngoại, cho người có học hay cho người vô học, cho khoa học gia hay cho người không biết tới khoa học, dù phần trình bày tin lành có khác, nội dung của nó vẫn như nhau".
B. Thứ hai, chúng ta có trách nhiệm bảo quản Tin lành.
Không những chúng ta có một tin lành; chúng ta đang có cùng một thách thức. Những tín đồ Do thái giáo đã xuất hiện và qua đi trên bối cảnh lâu rồi, nhưng vẫn còn có những kẻ muốn vặn cong, bóp méo sứ điệp của Tin lành. Hãy nhớ tới lời quở trách của Phaolô trong 1.8: "Nhưng nếu có ai, hoặc chính chúng tôi, hoặc thiên sứ trên trời, truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin Lành chúng tôi đã truyền cho anh em, thì người ấy đáng bị a-na-them!"
Xung quanh chúng ta là những người cứ tiếp tục phạm theo sai lầm của những kẻ theo giáo Giu-đa. Họ tiếp tục thêm vào ân điển của Đức Chúa Trời. Họ muốn thêm phép báptêm, địa vị thuộc viên trong nhà thờ hay trong nhóm của họ (thậm chí tôi biết có một số tín đồ báptít, họ tin quí vị không thể nhận lãnh Đức Thánh Linh cho tới chừng nào quí vị lún sâu vào một trong các nhà thờ của họ) hoặc tuân giữ luật lệ, nội quy hầu giữ được cứu rỗi.
Chúng ta có bổn phận không những với người nào đã có mặt trước, mà còn có bổn phận với những ai sẽ tới sau nữa. Chúng ta nhìn biết lẽ thật hôm nay vì cớ những người như Phaolô và Phierơ, mà còn vì những người như Martin Luther, John Calvin, John Wesley, Jonathan Edwards và nhiều người khác nữa, họ không đứng theo cách biếng nhác rồi để cho tin lành bị phai nhạt đi quyền phép của nó.
I Timôthê 3.15 chép: "Hội thánh của Đức Chúa Trời hằng sống" "trụ và nền của lẽ thật vậy". Chúng ta là những người canh giữ, lưu trữ của đạo thật. Trong kỹ nguyên nầy của thuyết tương đối, chúng ta phải cẩn trọng bảo quản sự sáng của Tin lành cho các thế hệ trong tương lai.
C. Thứ ba, hiệp một là vấn đề của lẽ thật, chớ không phải của truyền thống.
Các tín đồ Do thái giáo đã chối bỏ Phaolô vì ông không noi theo truyền thống của họ. Các vị sứ đồ đã tiếp nhận ông vì ông đã đứng cho lẽ thật của Tin lành.
Vấn đề, ấy là khó khăn luôn luôn cho Cơ đốc nhân phải tiếp nhận các Cơ đốc nhân khác, là những người xuất thân từ các truyền thống khác nhau. Chúng ta lấy làm lạ về ơn cứu của ai đó nếu chúng ta không dự phần vào đấy. Các vị sứ đồ là hạng người lớn lao hơn, họ đã tin theo một Đức Chúa Trời lớn lao hơn. Họ nhìn biết rằng chính Ngài là Đấng tìm và cứu kẻ bị hư mất. Họ sẵn lòng tiếp nhận người khác (như Tít chẳng hạn) Đức Chúa Trời đã cứu Tít mà họ chẳng có dự phần gì vào. Cái nền chung của họ với Phaolô không phải là truyền thống mà là lẽ thật của Tin lành.
Mấy tháng gần đây, có vài lần tôi bị hỏi về sự ủng hộ đối với Đại hội Franklin Graham. Có người đã nói: "Nhưng còn về các Hội thánh kia, họ có người tin theo một tin lành khác thì sao? Chúng ta sẽ giao thông với họ như thế nào đây?" Câu trả lời của tôi, ấy là mối giao thông của chúng ta không phải với người nào có mặt, mà là với sứ điệp của tin lành. Franklin Graham chỉ rao giảng rõ ràng chính tin lành mà chúng ta đang rao giảng, chính tin lành mà Phaolô đã rao giảng. Nói thẳng ra, tôi rất vui sướng vì những người đó đã có mặt. Tôi ước ao nhiều người thể ấy có mặt ở đó để nghe lẽ thật nói về ơn cứu rỗi bởi ân điển nhờ đức tin.
Ở đây là một tia sáng vừa loé lên, không phải ai trong thiên đàng đều là người báptít đâu. Còn cái khác biệt nữa là đây, không phải hễ là người báptít đều được lên thiên đàng cả đâu. Mối giao thông của chúng ta với các tín hữu khác không đặt trên những truyền thống và tín điều của hệ phái, mà đặt trên sứ điệp quan trọng của Tin Lành.
Nền tảng của chúng ta không đặt trên các truyền thống hay hệ phái tôn giáo, mà đặt trên công tác đã hoàn tất của Đức Chúa Jêsus Christ. Không có một chỗ nứt nào trong cái nền ấy. Bài thánh ca xưa nói rất rõ:
Đền là chúng ta lập nguyên đá sống
Làm nơi trú cư Ngài trên dương trần
Ngài chuộc chúng ta bằng huyết bi thống
Làm con kế nghiệp thừa hưởng linh phần
Nếu hai người chung nhân danh Jêsus
Ngài tất giáng lâm với ơn Thiên Phụ
Lấy ái tâm làm chiếc khiên hộ phù

Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

Galati 1.11-24: "Sự biến đổi triệt để"



Tự do thực – Galati
Sự biến đổi triệt để

Galati 1.11-24
Chúng ta đang sống ở một thời đại trong đó "đạo đã được truyền cho các thánh một lần đủ rồi” (Giuđe 3). Có nhiều đoàn dân đông, họ tự nhận mình là Cơ đốc nhân, lại chưa hiểu hết các yếu tố cơ bản nhất của đạo mà họ xưng nhận đang tin theo. Chúng ta đang sống vào một thời điểm trong đó có vô số người xưng mình tin theo Kinh Thánh lại chẳng hiểu biết chi về Kinh Thánh hết.
Theo các thăm dò ý kiến của George Gallup Jr.: "Chỉ có 4 trong 10 người Mỹ biết rõ Chúa Jêsus đã giảng Bài Giảng Trên Núi. Đại đa số quần chúng không thể đọc tên bốn sách Tin lành của Tân Ước. Chỉ có 3 trong 10 thanh thiếu niên biết rõ lý do tại sao người ta kỷ niệm Lễ Phục Sinh. Hai phần ba dân Mỹ tin có ít, hoặc có bất kỳ nguyên tắc tuyệt đối nào điều phối cách ăn ở của con người".
Một thăm dò mới của Nhóm Nghiên Cứu Barna cho rằng nạn mù mịt về tôn giáo đã gia tăng. Thí dụ, cứ bốn người, thì có ba người Mỹ (và gần phân nửa những Cơ đốc nhân “đã sanh lại”) đang tin Kinh Thánh dạy rằng "Đức Chúa Trời cứu giúp ai biết tự cứu lấy mình". Một số người tương tự xưng mình là Cơ đốc nhân đã được lại sanh đang chối bỏ sự tồn tại của Đức Thánh Linh và Satan. Một trong năm người đang chối bỏ sự sống lại về phần xác của Chúa Jêsus và tin Ngài là một tội nhân. Trong khi gần 3/4 dân Mỹ tin có địa ngục, mà lại chẳng tin đó sẽ là số phận đời đời của họ trong cõi đời đời.
Sử gia thuộc trường Đại học Wisconsin là Thomas Reeves buộc tội sự thờ phượng và tín điều tôn giáo được nhiều người ưa thích. Ông nói: "Cơ đốc giáo trong nước Mỹ hiện đại, phần lớn là vô thưởng vô phạt. Nó có xu hướng tiện nghi, dễ chịu, lạc quan và tương thích. Nó không đòi phải tự hy sinh, kỷ luật, hạ mình, và viễn cảnh đời sau, một sự sốt sắng dành cho linh hồn, một sự sợ hãi cũng như tình yêu dành cho Đức Chúa Trời. Có ít tội lỗi và chẳng có sự trừng phạt, và sự thưởng phạt trên thiên đàng gần như là chắc chắn".
Cựu Bộ Trưởng Giáo Dục, ông William Bennett kết luận: "…chúng ta đã trở thành loại xã hội khai hoá các quốc gia thường sai phái các giáo sĩ ra đi".
Vì cớ nạn mù mờ về Kinh Thánh, sứ điệp sách Galati ngày nay rất cần thiết nhiều giống như khi sứ đồ Phaolô đã viết ra lần đầu tiên khoảng năm 48SC. Phaolô đã thiết lập ít nhất bốn Hội thánh trong khu vực Hy lạp mà ai cũng biết là xứ Galati. Sau khi ông ra đi rồi, các giáo sư giả đến bao vây rồi bắt đầu vặn cong, bóp méo tin lành mà Phaolô đã rao giảng. Ai cũng biết họ là những người theo đạo Do thái, vì họ muốn thêm vào phép cắt bì của người Do thái, luật lệ và các nghi thức Do thái vào sứ điệp của thập tự giá. Họ đã nhất trí với các giáo sư người xứ Giuđê, họ đã dạy dỗ trong Công Vụ các Sứ Đồ 15.1: "Nếu các ngươi chẳng chịu phép cắt bì theo lễ Môi-se, thì không thể được cứu rỗi".
Người thành Galati giờ đây phải chọn giữa hai sứ điệp. Thắc mắc vẫn còn ở trước mặt chúng ta. Có phải chúng ta đã được cứu là do tin hay do thành tựu? Có phải chúng ta được cứu do tin vào các việc lành hay tin nơi Đấng Christ?
Những tín đồ Do thái giáo biết rõ rằng nếu họ muốn thắng cuộc tranh luận, họ phải làm mất uy tín của Phaolô vì làm mất uy tín sứ giả là làm cho sứ điệp chẳng còn có hiệu quả nữa. Làm dấy lên những điều đáng nghi ngờ về sự uỷ nhiệm Phaolô trong vai trò sứ đồ thì chẳng có gì khó lắm đâu. Thí dụ, ai nấy đều biết ông không phải là một trong 12 vị nguyên được Chúa Jêsus kêu gọi. Ông chưa bao giờ gặp gỡ Chúa Jêsus trong suốt chức vụ của Ngài ở trên đất. Phaolô thậm chí không trở thành một Cơ đốc nhân mãi rất lâu cho tới sau khi Chúa Jêsus chịu chết, rồi sống lại thăng thiên về trời. Các vị giáo sư giả cũng nói bóng gió rằng cá nhân họ đều biết rõ 12 sứ đồ nguyên thủy tại thành Jerusalem và họ đã bất đồng với Phaolô về phương thức để người ta được cứu rỗi.
Phân đoạn Kinh Thánh trong tuần qua, các câu 6-10 là một lời cảnh cáo tuyệt đối không thể chịu được đối với những kẻ phạm vào tội phản bội thuộc linh do “vội bỏ’ tin lành. Phân đoạn nầy cũng thốt ra những lời lẽ khá căng, lời ấy phán xét những giáo sư nào bằng lòng thêm hay bớt đối với sứ điệp nói tới ân điển của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phaolô nói: "Nguyện kẻ ấy đáng bị anathem" hay bị dành cho sự hủy diệt.
Trong phân đoạn nầy, Phaolô biện hộ cho Tin lành bằng cách công bố ra nguồn gốc Tin lành ấy chính là Đức Chúa Jêsus Christ. Thực vậy, Phaolô đang nói: "Nếu quí vị bất đồng với tôi về Tin lành, quí vị đang bất đồng với Đức Chúa Jêsus Christ vì tôi đã nhận tin lành ấy từ nơi Ngài". Kế đó ông đưa ra cho chúng ta thấy bằng chứng cá nhân của ông về quyền phép biến đổi của tin lành nầy trong chính đời sống của ông.
I. Sức mạnh biến đổi của Tin lành (các câu 11-12).
Một trong những nhà thần học và là truyền đạo lỗi lạc nhất trong thời của chúng ta, John Stott nói: "Chúng ta suy nghĩ tới thư Rôma, thư Côrinhtô và các thư tín trong tù như Êphêsô, Philíp và Côlôse. Chúng ta thấy có ấn tượng bởi tầm vóc oai nghi, sự sâu sắc, tính kiên định của chúng, khi Phaolô tóm tắt ý định của Đức Chúa Trời từ suốt cõi đời đời. Nhưng Phaolô đã rút tỉa mọi sự ấy từ đâu? Phải chăng đó là sản phẩm của trí tưởng tượng đa phần phong phú của chính đầu óc ông? Có phải ông đã dựng lên nó không? Hoặc giả đấy là bản sao của sản phẩm không có nguyên tác? Có phải ông đã quay cóp nó từ các vị sứ đồ khác tại thành Jerusalem, là điều mà những tín đồ Do thái giáo đã nắm bắt khi họ ra sức đánh hạ thẩm quyền của ông để cho người khác thấy là họ quan trọng hơn?" Đấy là những thắc mắc hợp lý và Phaolô trả lời thẳng cho họ trong hai câu đầu tiên nầy.
A. Tin lành chẳng phải đến từ loài người đâu (câu 11).
Phaolô nói: "Hỡi anh em, tôi nói cho anh em rằng…" nghĩa là: "cho phép tôi trình bày điều nầy cho rõ ràng". Hãy chú ý ông gọi họ là "anh em" ở đây và ông gọi thế 10 lần khác nữa xuyên suốt bức thư. Người thành Galati là anh em trong Chúa nhưng đang gắn bó với sự lìa bỏ đức tin trong chỗ nguy hiểm.
Phaolô nói tiếp: "Tin Lành mà tôi đã truyền, chẳng phải đến từ loài người đâu". Tin lành không xuất phát từ cái đầu của con người mà xuất phát từ trái tim của Đức Chúa Trời. Con người không hề cưu mang được một sứ điệp như thế. Tin lành ân điển ngược lại với con người. Sự kiêu ngạo của con người bị xúc phạm bởi quan niệm cho rằng con người là tội nhân và không có khả năng làm được gì để tự cứu lấy mình. Con người cứ khăng khăng là mình sẽ kiếm được ơn cứu rỗi cho riêng mình.
B. Tin lành không được nhận lãnh từ con người (câu 12a).
Phaolô tiến xa hơn, ông nói: "vì tôi không nhận và cũng không học Tin Lành đó với một người nào". Phaolô không nhận lãnh sứ điệp từ các tác phẩm bậc thầy của các rabi thời Cựu Ước. Thậm chí ông không đi với và ngồi tại chơn của 12 sứ đồ tại thành Jerusalem hầu tiếp thu sứ điệp nầy.
C. Tin lành được tỏ ra từ Đức Chúa Jêsus Christ (câu 12b).
Thay vì thế, Phaolô nói: "nhưng đã nhận lấy bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Jêsus Christ". Giống như Phaolô làm sứ đồ là "nhờ Đức Chúa Jêsus Christ". Sứ điệp đã đến với ông là do "sự tỏ ra của Đức Chúa Jêsus Christ". "Sự tỏ ra" có ý nói tới "bật mí điều chi trước đó là bí mật". Bởi ân điển của Đức Chúa Trời Chúa Jêsus đã được tỏ ra cho Phaolô.
Không những sứ điệp nói tới Đấng Christ đã được tỏ ra cho Phaolô, mà chính thân vị của Đấng Christ, chính mình Chúa Jêsus nữa. Phaolô vốn biết rõ sứ điệp nói tới Đấng Christ rất lâu trước khi ông trở thành một Cơ đốc nhân. Ông biết rõ những Cơ đốc nhân mà ông đã bắt bớ, họ tin Chúa Jêsus là Đấng Mêsi và Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Trước khi trở lại đạo, Phaolô đã được đưa tới một học viện để nghe tóm tắt về các tín điều Cơ đốc. Tuy nhiên, trên con đường dẫn tới thành Đa-mách, Đức Chúa Trời đã tỏ ra hay bật mí thân vị của Đức Chúa Jêsus Christ cho Phaolô thấy và ông đã chịu tin theo. Về mặt cơ bản, Chúa Jêsus đã biến đổi Phaolô!
Có nhiều người xưng nhận Đức Chúa Trời phán dạy họ, nhưng rồi lại có nhiều người tin Elvis đang còn sống. Xưng nhận "mặc khải" đến từ Đức Chúa Trời là một chuyện. Còn minh chứng nó, ấy là một chuyện khác nữa. Cho nên, đây đúng là điều Phaolô nói tiếp kế đó. Ông cung ứng cho chúng ta bằng chứng đáng giật mình về việc gặp gỡ Chúa Jêsus, Ngài biến đổi ông từ một kẻ dùng bạo lực bắt bớ thành một vị sứ đồ của ân điển.
II. Quyền phép biến đổi của Tin Lành (các câu 13-24).
A. Phaolô trước khi ông gặp Chúa Jêsus (các câu 13-14).
Trước khi Phaolô gặp Chúa Jêsus, ông đã bắt bớ Hội thánh (câu 13). Ông nói: "Vả, anh em đã nghe lúc trước tôi theo giáo Giu-đa…". Nói cách khác: "Anh em biết tiểu sử của tôi mà. Anh em biết tôi là hạng người nào mà. Anh em có thể tự kiểm tra lại điều nầy mà".
Ông nói thêm: "Anh em đã nghe…cách cư xử của tôi là thể nào, tôi bắt bớ và phá tán Hội thánh của Đức Chúa Trời quá chừng". Phaolô, lúc bấy giờ còn mang tên Sau-lơ, ông vốn thù ghét Cơ đốc giáo lắm. Các vị sứ đồ là những kẻ thù mà ông không thể đội trời chung. Ông đã làm mọi sự mà ông có thể và rồi ông “bắt bớ và phá tán quá chừng", ông chà đạp và trừ tiệt các môn đồ của Chúa Jêsus.
Công Vụ các Sứ Đồ 8.3 chép: "Nhưng Sau-lơ làm tàn hại Hội thánh: sấn vào các nhà, dùng sức mạnh bắt đờn ông đờn bà mà bỏ tù". Trong Công Vụ các Sứ Đồ 9, đang khi trên đường đi đến thành Đa-mách, ông "chỉ hằng ngăm đe và chém giết môn đồ của Chúa không thôi". Câu 2 chép: ông đến gặp thầy tế lễ cả "xin người những bức thơ để gởi cho các nhà hội thành Đa-mách, hầu cho hễ gặp người nào thuộc về đạo bất kỳ đờn ông đờn bà, thì trói giải về thành Giê-ru-sa-lem". Ông muốn có các bản cáo trạng nghịch lại bất cứ ai tự xưng mình là Cơ đốc nhân. Trong phần làm chứng của ông trước mặt Vua At-ríp-ba ở Công Vụ các Sứ Đồ 26.9-11, ông khẳng định: "Thật, chính mình tôi đã tin rằng nên dùng đủ mọi cách thế mà chống lại danh Jêsus ở Na-xa-rét. Thật tôi đã làm sự nầy tại thành Giê-ru-sa-lem: sau khi đã chịu quyền của các thầy tế lễ cả, thì tôi bỏ tù nhiều người thánh; và lúc họ giết các người đó, tôi cũng đồng một ý. Vả lại, tôi thường trảy đi từ nhà hội nầy đến nhà hội kia, hà hiếp họ, để bắt họ phải nói phạm thượng, tôi lại nổi giận quá bội bắt bớ họ cho đến các thành ngoại quốc".
Khi ông nói ông "đã bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời quá bội", ông có ý nói tới chỗ ông đã nhốt tù nhiều Cơ đốc nhân, đánh đập họ tại nhà của họ, đã hà hiếp họ, buộc họ phải nói phạm thượng với Đấng Christ và bỏ phiếu tán thành việc hành quyết họ nữa. Khi họ bỏ trốn, ông đã đuổi theo họ vào vùng đất ngoại bang tìm cách dẫn độ họ về. Ông đã xem Cơ đốc giáo là một căn bịnh và chính mình ông là phương chữa lành.
Thú vị thay, ở đây trong câu 12, ông nói ông "đã bắt bớ HỘI THÁNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI". Giờ đây, khi quay nhìn lại, ông đã có một nhận thức rất mạnh mẽ về tính hiểm độc trong tội ác của ông. Ông tưởng ông đang phục vụ Đức Chúa Trời, nhưng thực ra ông đang chiến đấu chống lại Đức Chúa Trời.
Trước khi Phaolô gặp Chúa Jêsus ông rất tấn tới trong Do thái giáo (câu 14). Ông nói: "tấn tới trong giáo Giu-đa hơn nhiều người cùng tuổi cùng nước với tôi, tôi là người sốt sắng quá đỗi về cựu truyền của tổ phụ tôi". Ông đang cỡi chiếc hoả tiển tôn giáo lên tới tầm cao quan trọng! Ông là "Ông Bự của Ông Bự" giữa vòng các cấp lãnh đạo người Do thái. Ông sốt sắng nghiên cứu các tác phẩm của hàng rabi. Ông đã có đủ thứ bài vị tôn giáo, tuy nhiên ông đã đứng cách xa đối với Đức Chúa Trời.
Đâu là tiêu điểm? Giống như Phaolô đang nói: "Anh em muốn thêm việc tuân giữ luật pháp vào ân điển của Đức Chúa Trời ư? Tôi vốn biết mọi sự về luật pháp đây! Tôi là bậc thầy về luật pháp đây! Không những tôi đã theo luật pháp ấy, mà tôi còn tuân thủ theo luật pháp ấy nữa. Tôi đã bắt bớ nhiều Cơ đốc nhân ở bên hữu, ở bên tả. Tôi từng tìm cách kiếm sự tán thưởng của Đức Chúa Trời nhờ vào việc tuân giữ các luật lệ đó. Tôi giữ hết luật nầy đến luật kia. Tôi không muốn quay trở lại vì bây giờ tôi đang nhận biết ơn lạ lùng của Đức Chúa Trời rồi!"
Có nhiều người giống như Phaolô trong Hội thánh ngày hôm nay. Họ tin vào sự thật họ đi nhà thờ, họ bước tới gần bàn thờ hay đã chịu phép báptêm, hoặc là hạng người nhơn đức thay vì tin cậy chỉ vào Chúa Jêsus. Có khi, tôi thuyết phục lòng mình rằng tôi được cứu vì tôi đã chịu phép báp-têm. Hỡi anh em, đừng tìm cách sống tôn giáo nữa mà chi. Hãy thôi đừng tìm cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ danh sách những việc cần làm theo và những gì thôi đừng làm nữa. Đức Chúa Trời chẳng thấy có ấn tượng gì ở chỗ đấy đâu! Thay vì thế, hãy ném mình vào ân điển của Ngài.
B. Phaolô khi ông gặp Chúa Jêsus (các câu 15-16a).
Các câu 15-16 chứa ba câu nói rất hay mô tả sự trở lại đạo của Phaolô; thực ra, chúng mô tả kinh nghiệm được cứu của bất kỳ ai thực sự đến với Đấng Christ. Phaolô nói rằng Đức Chúa Trời đã "để riêng" hay biệt riêng ông ra từ lúc còn trong lòng mẹ, bởi ân điển Ngài đã kêu gọi ông, và đã tỏ ra Con của Ngài ra cho ông.
Đức Chúa Trời biệt riêng Phaolô từ lúc còn trong lòng mẹ (câu 15a). Phaolô không đề xướng hay tạo ra sự mình được cứu. Quí vị và tôi cũng vậy. Sự cứu rỗi của chúng ta bắt đầu ngay giây phút chúng ta cầu xin Chúa Jêsus tha thứ và làm Chúa trong đời sống của chúng ta. Sự cứu rỗi của chúng ta đã bắt đầu từ cõi quá khứ đời đời. Phaolô nói Đức Chúa Trời đã "để riêng [sát nghĩa ‘biệt riêng ra’ hay ‘dành riêng’] tôi ra từ lúc còn trong lòng mẹ". Phaolô đã được Đức Chúa Trời biệt riêng ra cho sự cứu rỗi và chức vụ sứ đồ từ lâu trước khi ông thốt ra những lời lẽ đầu tiên của ông. Thực vậy, Ngài đã biệt riêng ông lâu lắm rồi. Êphêsô 1.4 chép: "trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời".
Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta từ lâu trước khi chúng ta chọn lấy Ngài. Tôi biết đây là một tình thế rất khó xử đối với một số người vì dường như nó thu nhỏ lại trách nhiệm của con người trong sự cứu rỗi. Tuy nhiên, ĐẤY MỚI LÀ CHÍNH XÁC NHỮNG GÌ PHAOLÔ ĐANG RA SỨC THỔ LỘ! Sự cứu rỗi không đến từ cha mẹ, từ học vấn, hay từ môi trường của chúng ta, sự cứu rỗi ấy đến bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời bởi ân điển đã kêu gọi Phaolô (câu 15b). Kế đó Phaolô nói Đức Chúa Trời đã "lấy ân điển gọi tôi". Một khi Đức Chúa Trời để riêng Phaolô ra từ lúc còn trong lòng mẹ, ông chưa được cứu cho tới khi ông phải đương diện với tin lành. Đấy là lý do tại sao chúng ta cứ tiếp tục chia sẻ Tin lành, chúng ta không biết Đức Chúa Trời sẽ kêu gọi ai. Phierơ nói lời hứa về sự cứu rỗi là để cho "…bao nhiêu người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi" (Công Vụ các Sứ Đồ 2.39).
Phaolô đã được kêu gọi bởi ân điển trên con đường đi đến thành Đa-mách. Ông đã nhìn thấy ánh sáng chói lói và đã nghe giọng nói của Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời cũng đã kêu gọi tôi "bởi ân điển Ngài". Mặc dù sự kêu gọi nầy ít có gây ấn tượng sâu sắc, song không phải là không thực. Tôi lớn lên trong một gia đình Cơ đốc và đi nhà thờ từ lúc mới có mấy ngày tuổi. Khi tôi lên 7, tôi đã bước lên bên bàn thờ và đã chịu phép báptêm. Trong một thời gian dài, tôi tin vào sự thực mình đã chịu phép báptêm, mình là thuộc viên của Hội thánh, là một thiếu niên tốt đáng được cứu rỗi. Tuy nhiên, Chúa Jêsus thực sự "kêu gọi tôi" khi tôi được 14 tuổi. Tôi ngồi trên một khúc gỗ mới đốn hạ trong rừng và đã đặt lòng tin cậy Chúa Jêsus, không phải ở trong nhà thờ, không phải nơi phép báptêm, hay một ít lời cầu nguyện. Tôi tin cậy nơi Ngài và chỉ có ân điển của Ngài mới cứu tôi mà thôi.
Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta "bởi ân điển Ngài". Ngài không nhìn tới phía trước vào trong cõi tương lai với sự toàn tri hầu đặt để người nào có bẩm chất chịu tin theo và rồi mới kêu gọi họ. Ngược lại, chẳng có một điều gì là tốt lành ở nơi tôi cả. Lý do duy nhứt tôi trở thành con cái của Đức Chúa Trời là bởi "ân điển Ngài", là tình yêu mà tôi không thể tìm kiếm được, là sự ưu ái mà tôi không xứng với trong việc kêu gọi tôi để ban ơn cứu cho. Êphêsô 1.5 chép Đức Chúa Trời: "…bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ, theo ý tốt của Ngài".
Đức Chúa Trời bày tỏ Con Ngài ra cho Phaolô (câu 16a). Mặc dù Phaolô cho chúng ta biết trong vài phân đoạn Kinh Thánh, rằng ông đã trông thấy Đấng Christ phục sinh với ánh mắt của Ngài, nhưng quan trọng hơn thế Ngài đã nhìn thấy ông với cả tấm lòng của Ngài. Đức Chúa Trời đã thực thi công việc của ân sũng trong đời sống của Phaolô. Ngài phá vỡ tánh kiêu ngạo và thành kiến trong tấm lòng và giúp cho ông nhìn thấy Chúa Jêsus y như Ngài đang sống vậy, là Con Đức Chúa Trời Cứu Chúa của chúng ta.
C. Phaolô sau khi ông gặp Chúa Jêsus (các câu 16b-24).
Đúng là một câu chuyện khó mà tin được! Saulơ đã trở thành Phaolô. Kẻ bắt bớ trở thành một nhà truyền đạo! Ông đã được biến đổi từ một người bằng lòng giết chóc Cơ đốc nhân trở thành một nhân vật sẵn sàng chịu giết trong vai trò một Cơ đốc nhân. Ông đã được biến đổi từ một người nhìn xem Tin lành là một mối đe doạ đến một nhân vật nhìn thấy Tin lành là nguồn hy vọng cho cả thế gian! Một sự biến đổi cơ bản như thế rất khó thực thi nếu không có công tác của Đức Chúa Trời. Các giáo sư giả ở thành Galati đã nói Phaolô đã dựng lên Tin lành nói tới ân điển của Đức Chúa Trời. Phần cá nhân chứng đạo của Phaolô minh chứng rằng tin lành "đã đến qua sự tỏ ra của Đức Chúa Jêsus Christ".
Những điều Phaolô đã không làm (các câu 16b-17a). Trước tiên Phaolô "lập tức chẳng bàn với thịt và máu". Ông không kiểm tra với rabi rồi đưa ra cuộc hẹn với vị tư vấn của mình. Ông không nhóm lại với nhóm ủng hộ vì con người với các kinh nghiệm gần kề với sự chết chuyên nói về ánh sáng chói lói kia. Ông biết rất chính xác điều chi đã xảy ra. Ông đã gặp gỡ Đấng Christ trên con đường đi đến thành Đa-mách!
Thứ hai, Phaolô lập tức "không lên thành Giê-ru-sa-lem, đến cùng những người đã làm sứ đồ trước tôi". Điều nầy rất quan trọng vì những tín đồ Do thái giáo đã nói Phaolô chỉ nghe Tin lành từ các vị sứ đồ khác và đã vặn vong, bóp méo Tin lành ấy. Mặc dù rất là lạ vì bất kỳ tân tín hữu nào cũng ngồi nơi chơn Phierơ, Giacơ, Giăng cùng các vị sứ đồ khác, Đức Chúa Trời đã không cho phép điều nầy xảy ra và giờ đây Phaolô rất vui sướng vì điều đó cung ứng một chứng cớ ngoại phạm trong cuộc tranh cãi nầy.
Những điều Phaolô bắt tay vào làm (các câu 17b-24). Phaolô đi qua xứ "Arabi". Trong "ba năm", ông dành thời gian ở trong sa mạc. Chúng ta không có một báo cáo nào trong Kinh Thánh ghi lại điều chi đã xảy ra trong ba năm đó. Tuy nhiên, chúng ta có thể dám chắc rằng trong khoảng thời gian nghiên cứu, học hỏi, cầu nguyện và suy gẫm cho biết Chúa đã hiện ra cùng Phaolô trên con đường đến thành Đa-mách đã vén ra cho ông nhiều lẽ thật về đức tin của chúng ta. Phần lớn những gì Phaolô đã viết ra trong các thư tín Tân Ước ông đã một mình học tập với Chúa Jêsus ở trong xứ Arabia. Có người cho rằng thời kỳ nầy là phần "sự nghiệp thần học" của Phaolô. Chuck Colson là một trong những nhà tư tưởng Cơ đốc lỗi lạc nhất trong thời đại của chúng ta. Ông đã đến với Đấng Christ ở trong tù sau khi phạm tội trong vụ Watergate. Ông nói với nụ cười ngày nay ông lo làm công tác thần học trong một "hệ phái bị đóng kín cửa".
Kế đó, Phaolô nói ông "trở về lại thành Đa-mách". Sau khi hay ông quay trở lại, người Do thái ở tại thành Đa-mách đã dựng lên một mạng lưới theo dõi Phaolô. Họ đã "ngày đêm canh chừng các cánh cổng để giết ông". Tuy nhiên, "các môn đồ đương ban đêm dòng ông xuống bức tường qua một cái giỏ".
Khi "ba năm" nầy đã mãn (có lẽ ba năm kể từ khi ông trở lại đạo), Phaolô "đi lên thành Jerusalem, đặng làm quen với Phaolô" (câu 18). Ông đã ở lại với Phierơ chỉ có "mười lăm ngày". Đây quả là một thời gian đáng phải có. Khi tôi đi dự các Hội đồng Mục sư, có những vị Mục sư bạn thân ở lại trong nhà tôi hoặc đến thăm gia đình họ chúng tôi ngủ lại một thời gian ngắn. Chúng tôi thức tới nửa đêm để bàn bạc công việc của Chúa và mọi điều Đức Chúa Trời đang dạy dỗ chúng ta trong Kinh Thánh. Tôi hình dung Phaolô và Phierơ đang làm công việc đó. Phaolô nói với Phierơ mọi sự về ánh sáng chói lói kia từ trời giáng xuống và ba năm trong xứ Arabi. Phierơ nói cho Phaolô biết đồng đi với Chúa Jêsus có ý nghĩa như thế nào và giải đáp nhiều thắc mắc. Rõ ràng chẳng có sự bất đồng nào giữa họ về bản chất của Tin lành.
Trong suốt thời gian nầy, ông "không thấy một sứ đồ nào khác, trừ ra Gia-cơ là anh em của Chúa". Thực vậy, Công Vụ các Sứ Đồ 9.26 chép: "Sau-lơ tới thành Giê-ru-sa-lem rồi, muốn hiệp với các môn đồ; nhưng hết thảy đều nghi sợ người, không tin là môn đồ". Do quá khứ của ông, thật dễ hiểu khi họ e sợ Phaolô đang ngầm có một mưu tính nào đó. Tuy nhiên, khi Banaba đứng ra bảo lãnh cho ông. Câu 27 chép: "Ba-na-ba bèn đem người đi, đưa đến các sứ đồ và thuật lại cho biết thể nào dọc đường Chúa đã hiện ra và phán cùng người, lại thể nào người đã giảng dạy cách bạo dạn về danh Đức Chúa Jêsus tại thành Đa-mách". Vì vậy ông đã ở lại đó hơn 2 tuần lễ cùng “vào ra” với Phierơ và Giacơ. Ở Texas chúng ta nói họ có có mối tương giao cả vào và ra!
Phaolô nói thêm, trong dấu ngoặc đơn: "Thật, trước mặt Đức Chúa Trời, tôi quyết rằng điều tôi viết cho anh em đây chẳng phải là điều dối". Ông đã nhận lãnh tin lành trực tiếp từ nơi Chúa. Sau ba năm ông giảng đạo, cầu nguyện và học hỏi, ông chỉ mất 2 tuần lễ với Phierơ. Giacơ là "anh em của Chúa" không phải là một trong 12 sứ đồ, nhưng được xem là sứ đồ chỉ theo ý nghĩa chung chung mà thôi. Điều nầy cho thấy lời xưng nhận của các tín đồ Do thái giáo cho rằng ông nhận lãnh tin lành cách phụ thuộc là giả dối.
Công Vụ các Sứ Đồ 9.29 cho chúng ta biết rằng vì Phaolô "nhơn danh Chúa mà nói cách dạn dĩ. Người cũng nói và cãi với những người Hê-lê-nít; nhưng bọn nầy tìm thế để hại mạng người". Vì vậy ông đã rời khỏi thành Jerusalem rồi "đi qua các miền thuộc xứ Sy-ri và xứ Si-li-si" (câu 21). Thành phố quê nhà của Phaolô là Tạt-sơ nằm ở trong "Si-li-si". Ông đã rao giảng ở đó cho tới khi Banaba thúc giục ông đến tại xứ An-ti-ốt.
Trong chương 2, câu 1 chúng ta học biết rằng lúc ấy là "mười bốn năm" sau khi Phaolô trở lại thành Jerusalem. Cho nên, không có một điểm nào hợp lý khi cho rằng ông đã học hỏi và vặn cong, bóp mép tin lành nguyên đã được rao giảng bởi 12 sứ đồ nguyên thủy. Thực vậy, tin lành của Phaolô không xung khắc với sự dạy của họ, mà trái lại còn ca tụng sự dạy ấy nữa.
III. Ba lẽ thật của Tin lành có tính cách biến đổi.
Phaolô nói tin lành mà ông rao giảng đã đến trực tiếp từ nơi Chúa Jêsus. Như là bằng chứng, ông đã xác minh quyền phép biến đổi của tin lành ấy trong chính đời sống của ông. Sâu xa hơn nữa, ông chứng minh rằng ông có rất ít thời gian với các sứ đồ nguyên thủy, nhưng trong khoảng thời gian ít ỏi với sứ đồ Phierơ, ông đã thấy được sự dạy của họ không thách thức ông, mà còn khẳng định những gì ông đã rao giảng rồi nữa. Giờ đây, tôi muốn giải đáp cho thắc mắc đang nung nấu trong tâm trí của quí vị. "Vậy thì sao? Điều nầy có ý nghĩa gì đối với tôi".
A. Tin lành vẫn còn mang lấy quyền phép của Đức Chúa Trời.
Chúng ta không có quyền làm biến dạng Tin lành. Chúng ta không thể thêm hay bớt gì vào đó. Chúng ta không thể nói: "Đây là thời kỳ thiên hi niên, mọi sự giờ đây đang khác hẳn". Trong kỹ nguyên xuống dốc của Tin lành như hôm nay, người ta muốn điều chỉnh lẽ thật của Đức Chúa Trời sao cho phù hợp với bối cảnh của họ. Giu-đe 3 chép: "Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi". Đức tin, sự cứu rỗi chung của chúng ta đã từng được truyền ra. Chúng ta cần phải tranh chiến vì tin lành, chớ không nên làm biến dạng nó!
Mike Andrus, người bạn Mục sư của tôi đến từ St. Louis đã viết thư cho vị giáo sư ở Thần Học Viện Eden, để hỏi ông lý do tại sao ông và hệ phái của ông cứ tự nhiên trong chỗ đồng tính luyến ái. Mike nhận được lời đáp như sau: "Tôi thấy Kinh Thánh là thánh khiết, đáng tin cậy, và uy quyền tuyệt đối; và đúng như tôi thấy, tôi không thể xem Kinh Thánh là sai lầm được. (Mike thêm: Giờ đây tôi phải nói cho ông biết, tôi không thấy điều đó là hợp lý, nhưng ông ta cố gắng giải thích sự thể ấy như sau đây). Lời của Chúa là động hơn là tĩnh. Nói ngắn gọn, lời ấy đã thay đổi (ông ta gạch dưới hàng chữ nầy); và tôi kết luận, phải tiếp tục thay đổi để giữ lấy người theo đạo. Chúng tôi lường trước Đức Thánh Linh sẽ giúp cho chúng tôi giải thích cách trung tín Lời của Đức Chúa Trời vì cớ địa vị và thời thế của chúng ta (ông ta gạch dưới một lần nữa). Nếu có điều chi không đổi về Đức Chúa Trời và về Lời của Ngài, ấy là Đức Chúa Trời không hề thôi yêu thương (Ngụ ý: quí vị không được yêu thương khi quí vị nói tới tình trạng đồng tính đang sống động, người nói ra việc ấy không thể là Mục sư được). Sau cùng, vị giáo sư kia nói thêm: "Trường hợp tôi bất tuân đối với một số việc trong Kinh Thánh là chính mình Chúa Jêsus, tôi cũng xem Ngài là hiện thân của ý định Đức Chúa Trời giàu ơn yêu thương cả thế gian. Đối với tôi, điều nầy có uy quyền tuyệt đối, và Kinh Thánh nói cho tôi biết như thế”.
Khi chúng ta không giữ vững được uy quyền của Kinh Thánh, chúng ta có thể ném bỏ Tin lành ra khung cửa sổ. Đúng là sai và sai là đúng, thì tin lành sẽ trở thành điều mà chúng ta muốn nó phải trở thành.
B. Về cơ bản, Tin lành vẫn còn biển đổi tội nhân.
Sự biến đổi của Phaolô bởi tin lành rất thực về mặt cơ bản. Thật ra, sự biến đổi ấy cơ bản đến nỗi câu 23 nói các tín đồ Do thái giáo đã nghe nói tới sự biến đổi đó, họ nói như sau: "Người đã bắt bớ chúng ta ngày trước, nay đang truyền đạo mà lúc bấy giờ người cố sức phá". Số người nầy đã chịu khổ dưới những đợt tấn công tàn bạo của Phaolô. Họ đã nhìn thấy nhiều anh chị em trong Đấng Christ đã bị tù đày và thậm chí bị giết dưới tay Phaolô nữa. Tuy nhiên, họ đã nhìn nhận rằng tin lành có quyền phép đủ để làm biến đổi Phaolô.
Có nhiều người trong hội chúng nầy, về cơ bản họ đã được tin lành biến đổi. Nếu tôi yêu cầu quí vị phải làm chứng điều quí vị đã từng sống như thế nào và những gì Đức Chúa Trời đã làm trên đời sống của quí vị, chắc phải tốn nhiều giờ đồng hồ cho từng người để chia sẻ phần làm chứng của họ!
Đối với những người bạn chưa được biến đổi của tôi ở đây hôm nay, tôi giảng cùng một tin lành mà về cơ bản đã làm biến đổi Phaolô, tôi và tất cả những người nầy, về mặt cơ bản họ đang làm cho quí vị phải thay đổi. Đức Chúa Trời muốn biến quí vị trở thành một con người mới. II Côrinhtô 5.17 chép: "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới". Quí vị có thể được biến đổi ra mới ngay hôm nay!
C. Tin lành vẫn còn đem sự vinh hiển về cho Đức Chúa Trời.
Trong câu 24, Phaolô nói rằng những tín đồ trong xứ Giu-đê "vì cớ tôi ngợi khen Đức Chúa Trời". Có phải ngợi khen Đức Chúa Trời vì mọi điều họ nhìn thấy trong đời sống của quí vị hay họ đang nói: "Nếu người ấy là điều mà tin lành đang nói tới, làm ơn tránh khỏi tôi đi". Quí vị là sự sáng của thế gian, quí vị đang chiếu sáng như thế nào?

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010

Galati 1.6-10: "Phản bội về mặt thuộc linh"


Tự do thực – Galati
Phản bội về mặt thuộc linh
Galati 1.6-10

Benedict Arnold là một người can đảm, sáng tạo nhưng rốt cuộc lại ông ta chỉ là một kẻ phản bội, ông ta đã bán đứng xứ sở của mình. Trong một hành động phản bội độc ác, ông ta đã bán đứng xứ sở. Khi cuộc Cách Mạng nổ ra, Arnold là một nhà bào chế thuốc và là thương buôn ở Connecticut. Ông mau mắn tình nguyện vào phục vụ và đã tổ chức được một lực lượng lớn dân quân. Trải qua 5 năm, ông đã tham dự nhiều trận đánh, đã bị thương nặng hai lần và được vinh thăng đến Thiếu Tướng. Kèm theo đó, ông đã có vô số kẻ thù về mặt chính trị, ông bị rơi vào cảnh nợ nần và lấy vợ trong một gia đình trung thành nhất từ Philadelphia. Quốc Hội đã định đưa ông ra xử ở một toà án quân sự, nhưng George Washington đã ra lịnh cho ông phải đến trú đóng tại West Point, Nữu Ước. Ở đây Benedict Arnold đã trở thành một kẻ phản bội. Ông đã vạch kế hoạch trao mọi thông tin cho người Anh để đổi lấy một số tiền và một chuyến lưu vong ra khỏi xứ. Cuộc tiếp xúc của ông với người Anh, Thiếu Tá John Andre đã bị bắt cùng với các tài liệu quả tang và bị treo cổ như một điệp viên. Arnold đơn thân độc mã chạy trốn vì mạng sống của mình. Ông đã sống phần đời còn lại của mình lưu vong ở nước Anh rồi qua đời ở đó như một kẻ phản bội, một kẻ xoay chiều, một người đã sống mà không có tổ quốc.
Phản bội là một tội ác nghiêm trọng có thể bị kết án tử hình. Trầm trọng hơn nữa là sự phản bội về mặt thuộc linh. Sứ đồ Phaolô đã viết trong câu 6 rằng người thành Galati đã "vội bỏ" Tin lành, xây khỏi Đức Chúa Trời và ân sũng của Ngài. Phaolô lấy làm ngạc nhiên không biết sao họ dễ sai lạc quá như thế.
Trong các thư tín khác của Phaolô viết cho các Hội thánh, ông bắt đầu bằng lời ca ngợi và biết ơn. Ông nói như sau: "Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ" (I Côrinhtô 1.4), "sau khi tôi có nghe đức tin anh em…thì tôi vì anh em cảm tạ không thôi, thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện" (Êphêsô 1.15-16) và "Chúng tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện; vì trước mặt Đức Chúa Trời, là Cha, chúng tôi nhớ mãi về công việc của đức tin anh em, công lao của lòng yêu thương anh em, sự bền đổ về sự trông cậy của anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta" (I Têsalônica 1.2-3). Đối với người Galati Phaolô không đưa ra một lời khen ngợi hay cảm tạ nào hết. Thay vì thế, sau khi biện hộ cho thẩm quyền của ông là một sứ đồ rồi trình bày một sứ điệp ngắn về ân điển của Đức Chúa Trời trong các câu 1-4, ông bước ra ngoài với hai khẩu súng thuộc linh sáng rực. Ông cầm lấy hai khẩu súng đó. Gần như trong tình trạng không tin, ông nói: "Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ…" .
Giả sử một trong mấy đứa con gái của tôi sắp sửa bước tới đàng trước của một chiếc xe đang chạy với tốc độ cao. Điều nầy sẽ chẳng có thì giờ để dạy dỗ và giao tiếp lịch sự nữa rồi. Tôi sẽ kêu thét lên. Tôi sẽ nắm tóc chúng mà kéo lùi lại sau nếu thấy cần thiết. Phaolô sử dụng thứ ngôn ngữ mạnh mẽ vì Tin lành đang bị đe doạ, số phận đời đời của nhiều người đang bị treo trên cán cân. Người thành Galati đã ở trong sự nguy hiểm của việc trở thành kẻ phản bội giống như Benedict Arnold. Lời lẽ nặng nề của Phaolô sẽ khiến cho chúng ta phải tra cứu cẩn thận mối nguy hiểm của sự phản bội về mặt thuộc linh.
Chúng ta hãy xem xét bốn từ ngữ giúp chúng ta hiểu rõ sự phản bội về mặt thuộc linh. SỰ RUỒNG BỎ, SỰ XUYÊN TẠC, SỰ HỦY DIỆT và SỰ QUYẾT ĐỊNH.
I. SỰ RUỒNG BỎ. Ruồng bỏ Tin lành (câu 6).
A. Sự kinh ngạc của Phaolô.
Một lần nữa, Phaolô khởi sự bằng cách nói: "Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ". "Bỏ" ra từ một chữ Hy lạp có nghĩa là "đổi lòng trung thành của một người" hay đổi chiều. Chữ nầy thường mô tả binh lính nào nổi loạn hay đào ngủ. Thì của động từ cho thấy đây là một hành động có tính cách tình nguyện. Họ không tách ra khỏi Tin lành theo cách tiêu cực, mà là bằng lòng tự lìa khỏi ân điển của Đức Chúa Trời.
Hãy tưởng tượng xem, nếu quí vị nhặt tờ báo buổi sáng lên rồi đọc thấy Bill Clinton đã lìa bỏ Đảng Dân Chủ rồi trở thành một người thuộc Đảng Cộng Hoà. Ít nhất, phải nói rằng quí vị sẽ bị sốc! Đấy là cảm xúc mà Phaolô đang cung ứng cho chúng ta ở đây. Ông nói: "Tôi lấy làm lạ" hay "Tôi rất đỗi ngạc nhiên, kinh ngạc, lúng túng và mất hồn. Tôi đang ở trong tình trạng bị sốc. Tôi không thể tin được quí vị lại làm như thế".
Không những Phaolô lấy làm lạ khi họ “bỏ”, mà họ còn "vội bỏ" nữa. "Vội bỏ" có ý nói tới một là mau chóng, hai là dễ dàng và có khi cả hai dường như là trường hợp ở đây. Khi các giáo sư giả xen vào và làm sai lệch sứ điệp tin lành, họ mau chóng, dễ dàng và tiến hành sử dụng ngay sự dạy giả dối kia.
Luôn luôn là một sự kinh ngạc khi người ta lìa bỏ Chúa. Điều nầy làm tan nát cả cõi lòng. Nhiều lần suốt chức vụ của tôi, tôi đã nhìn biết những kẻ nào dường như tiếp nhận ơn cứu của Đức Chúa Trời cách sẵn lòng. Tuy nhiên, giống như hột giống đã được gieo ra trên vùng đất đá sỏi, "song khi mặt trời mọc lên, thì bị đốt, và vì không có rễ, nên phải héo. Một phần khác rơi nhằm bụi gai, gai mọc rậm lên, phải nghẹt ngòi" (Mathiơ 13.6-7).
Ruồng bỏ, phản bội thuộc linh có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Sứ đồ Phaolô, vị giáo sư Cơ đốc nổi tiếng nhất khác hơn Chúa Jêsus đã dạy sách Galati, thế mà "vội bỏ", họ đang ra sức chối bỏ các lẽ thật mà họ đã học biết từ nơi ông theo một phương thức rất mau chóng. Nếu sự ruồng bỏ về mặt thuộc linh đã xảy ra tại thành Galati, sự ruồng bỏ có thể xảy ra bất cứ đâu. Nó có thể xảy ra tại đây. Đấy là lý do tại sao chúng ta liên tục giảng đi giảng lại các lẽ thật trọng tâm của Tin lành. Nếu chúng ta từng đánh mất trọng tâm của Tin lành, chúng ta đang trôi giạt trên một đại dương sai lầm.
B. Sự khẳng định của Phaolô.
Ruồng bỏ Tin lành là lìa bỏ Đức Chúa Trời! Họ đang "vội bỏ" ai thế? Phaolô nói họ đang ruồng bỏ "Đấng gọi anh em". Quí vị không thể có một mối thông công phải lẽ với Đức Chúa Trời mà không có một niềm tin đúng đắn nơi Tin lành.
Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã làm cho địa vị mình thay đổi căn cứ trên một vài vấn đề thuộc về giáo lý. Qua phần nghiên cứu Kinh Thánh, tôi đã thay đổi một số nhận định của mình về thuyết mạt thế, Hội thánh, sự chọn lựa, các ân tứ thuộc linh cùng nhiều vấn đề khác. Trong thân thể có một chỗ trống dành cho một sự khác biệt về nhận định đối với một số vấn đề. Chúng ta có thể dung chịu các quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không thể chịu được một quan điểm tin lành khác vì ruồng bỏ Tin lành là lìa bỏ Đức Chúa Trời! Phaolô cảm thấy lo ngại vì người Galati không những thay đổi tâm ý mình về vị trí của lẽ đạo khi tranh cãi, họ đã xây lưng mình về phía Đức Chúa Trời!
Ruồng bỏ Tin lành là lìa bỏ ân điển! Hãy khoanh tròn hai từ trong câu 6. Hãy khoanh tròn chữ "Đấng" vì khi chúng ta xây khỏi Tin lành chúng ta đang lìa bỏ Đức Chúa Trời. Cũng khoanh tròn chữ "ơn" vì ruồng bỏ tin lành là lìa bỏ "ơn Đức Chúa Jêsus Christ".
Chúng ta đã được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời, là ơn của Ngài ban cho kẻ không xứng đáng. Êphêsô 2.8-9 chép: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình". Giờ đây chúng ta đang đứng vững hay sống động ở trong ân điển. Roma 5.2 chép: "…chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đương đứng vững". Nếu ơn của Đức Chúa Trời ban cho chúng ta phải dừng lại, chúng ta sẽ mất đi ơn cứu rỗi và bị hư mất trong tội lỗi.
Khi bước theo các giáo sư giả của họ, tín đồ Galati đang ra sức thêm vào ân điển của Đức Chúa Trời. Họ đang thêm phép cắt bì và tuân giữ luật pháp vào đức tin của họ hầu duy trì ơn cứu rỗi. Nếu quí vị phải thêm bất cứ điều chi vào ân điển thì khi ấy chẳng còn là ân điển nữa rồi!
Họ đang chà đạp và sĩ nhục ân điển của Đức Chúa Trời! Trong Galati 5.4, Phaolô nói: "Anh em thảy đều muốn cậy luật pháp cho được xưng công bình, thì đã lìa khỏi Đấng Christ, mất ân điển rồi". Ông nói trong 3.1: "Hỡi người Ga-la-ti ngu muội kia, ai bùa ếm anh em là người mà trước mắt đã được rõ bày ra Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên thập tự giá?" Khi Phaolô nghe được các báo cáo về sự phản bội thuộc linh ở xứ Galati, tôi hình dung ra ông hai tay ôm lấy đầu của mình. Ông lấy làm lạ không biết công việc của mình giữa vòng họ có ở trong chỗ luống nhưng hay không nữa. Ông không thể tin được họ sẽ vội ruồng bỏ từ các tin tức tốt lành mà đến "với một tin lành khác".
Khi ấy và bây giờ, đúng là phải lấy làm lạ khi có ai xây từ ơn tha thứ trọn vẹn và rời rộng của Đức Chúa Trời để hướng tới "một tin lành khác".
II. SỰ XUYÊN TẠC. Thêm vào tin lành (câu 7).
A. Không có một tin lành nào khác hết.
Phaolô nói ở phần cuối câu 6 rằng họ đang chạy theo "một tin lành khác". Giờ đây trong câu 7, ông làm sáng tỏ cách nói của mình bằng cách thêm: "chẳng phải có tin lành khác". Thực sự, chẳng có "tin lành khác" vì đâu có tin lành nào "khác" đâu! Công Vụ các Sứ Đồ 4.12 chép: "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu". Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 14.6: “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha".
Giá trị chính của nền văn hoá hậu Cơ đốc nầy là sự xuyên tạc, bóp méo. Không một giá trị, không một sự công bình, không một sự bình đẳng hoặc thậm chí không có một sự tự do nào khác đã được đánh giá cao như thế. Đây là lý do tại sao Cơ đốc giáo thực theo Kinh Thánh công bố Chúa Jêsus là "đường đi, lẽ thật, và sự sống" bị chỉ trích quá mấu như thế.
Mới đây ở Hội Nghị vì Hoà Bình Thế Giới tại Liên Hiệp Quốc, hơn 1000 vị lãnh đạo tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới đã nhóm lại, Ted Turner nhân vật có địa vị đáng nể về truyền thông đã phát biểu: "Tôi ra đời trong một gia đình Cơ đốc” [ông từng nói Cơ đốc giáo là ‘dành cho kẻ bị hư mất"]. Ông cho biết đã từng mơ đến việc trở thành "một người tu hành" song lại đâm lo vì nhóm tôn giáo của ông dạy rằng chỉ có Cơ đốc nhân mới được lên thiên đàng mà thôi. Ông nói: "Tôi nghĩ thiên đàng là một nơi trống rỗng, giờ đây tôi tin chỉ có một Đức Chúa Trời là Đấng bày tỏ chính mình Ngài ra bằng nhiều phương thức khác nhau cho nhiều người khác nhau". Dầu quí vị có tin nơi điều Ted nói hay không, Đức Chúa Trời phán Chúa Jêsus là đường đi duy nhứt mà thôi.
Xã hội chúng ta chẳng màng nơi chúng ta là con người tôn giáo đâu. Họ nghĩ rất là hay khi chúng ta giúp cho kẻ có số phận không may và cầu thay cho những người đang có cần. Quí vị có thể nói bất cứ điều chi quí vị muốn về Đức Chúa Trời, nhưng lại không nói về Chúa Jêsus.
Tôi luôn luôn thích đọc trang ý kiến của tờ báo. Chỗ tôi ưa thích nhất là cột xã luận. Tuần nầy tôi đọc một bài viết của Chris Matthews, trong đó ông mô tả sự khác biệt giữa tự do của tôn giáo và tự do từ tôn giáo. Khi mô tả cách xử sự của giới truyền thông đối với các ứng cử viên chính trị, ông viết: "Khi George W. Bush nói rằng Chúa Jêsus là `triết gia chính trị’ được đánh giá cao nhất, ông đã bị người ta xem là một kẻ dại dột. Khi Joe Lieberman trưng dẫn Kinh Thánh và đòi chúng ta phải đưa đức tin vào trong cuộc tranh chấp về chính trị, người ta xem ông là một nhà tiên tri". Đâu là sự khác biệt? Nói chung, tôn giáo không làm mất lòng ai hết. Chúa Jêsus làm cho nhiều người phải khó chịu.
Phaolô nói với người Galati và tôi nói điều đó với quí vị. Chẳng có một tin lành nào khác cả. Chẳng có một tin tức tốt lành nào khác hết. Chúa Jêsus là con đường duy nhứt đến với ơn tha thứ, một mối thông công phải lẽ với Đức Chúa Trời và cõi đời đời trên thiên đàng. Nếu quí vị không nhất trí, quí vị không có vấn đề gì với tôi cả, quí vị đang có vấn đề với Lời của Đức Chúa Trời đấy.
B. Các giáo sư giả đã gây rắc rối cho các Hội thánh.
Phaolô nói "nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em". Từ ngữ "rối" ra từ một chữ Hy lạp có nghĩa là "lắc tới lắc lui, làm rung động, lắc mạnh". Chữ nầy có ý nói tới một tâm trí bị lay động hay bất ổn. Đôi lúc các bảng thực đơn làm cho tôi phải “rối”. Tôi không thể quyết định mình nên ăn món nầy hay món kia. Tôi cứ loay hoay mãi giữa những sự lựa chọn. Khi tiếp viên đến, tôi lại gọi món khác!
Chúng ta đã nghiên cứu tuần vừa qua về một nhóm giáo sư giả được nhận dạng là những tín đồ Do thái giáo, họ đang xâm nhập vào các Hội thánh của người thành Galati. Họ đã thêm vào ơn của Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi. Họ nói quí vị phải tin theo Chúa Jêsus nhưng rồi phải chịu phép cắt bì và giữ luật của Cựu Ước.
Người Galati đang lay động. Họ cứ loay hoay giữa những gì Phaolô đã dạy cho họ biết về ân điển và mọi điều những tín đồ Do thái giáo giờ đây đang rao giảng cho họ. Họ đang chạy theo tà giáo trong sự nguy hiểm vì Phaolô đã nói họ đang ở trong quá trình của sự “ruồng bỏ”.
Đây là lý do tại sao không một ai muốn dạy dỗ ở trong Hội thánh của chúng ta. Chúng ta không làm đầy một địa vị với một thân thể ấm áp. Quí vị không thể đứng ở chỗ nầy một tháng rồi được phân công dạy dỗ trong tháng kế tiếp được. Chúng tôi muốn biết quí vị đã được Đức Thánh Linh ban ơn và lập nền trên đức tin hay chưa!?! Chúng ta không muốn người nào khác làm lay động dân sự của mình bằng sự dạy giả dối.
C. Các giáo sư giả muốn đánh đổ Tin lành.
Phaolô nói không những họ làm "rối" anh em, mà họ còn "muốn đánh đổ Tin lành của Đấng Christ” nữa. Từ ngữ "đánh đổ" là một từ rất mạnh. Nó có ý nói "vặn cong, làm biến dạng, bẻ cong". Từ nầy chứa ý niệm đánh đổ một vật gì đó xuống hoặc làm đảo ngược lại.
Những tín đồ Do thái giáo tự xưng mình là Cơ đốc nhân. Họ công nhận Chúa Jêsus là Đấng Mêsi. Họ thừa nhận sự chết có tính cách hy sinh của Ngài. Họ xưng mình tin mọi điều mà các Cơ đốc nhân khác tin. Họ không chối bỏ tin lành, nhưng thêm vào Tin lành ấy những đòi hỏi, các nghi thức và luật lệ của Do thái giáo. Họ nói quí vị phải tin theo Chúa Jêsus nhưng rồi phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật pháp, truyền thống của Israel.
Thêm bất cứ điều chi vào tin lành là một sự xuyên tạc, bóp méo và người ta vẫn còn làm như thế hôm nay. Quí vị có thể tìm ra nhiều nhà thờ trong thành phố nầy đang dạy rằng quí vị phải tin theo Chúa Jêsus và rồi phải chịu phép báptêm hoặc quí vị sẽ không được cứu. Nhiều người khác sẽ dạy rằng quí vị phải tin theo Chúa Jêsus rồi tiếp nhận một phép báptêm phước hạnh thứ nhì bởi Đức Thánh Linh. Nhiều người khác nữa sẽ bảo quí vị phải tin theo Chúa Jêsus rồi làm ra những việc lành hay tin Chúa Jêsus rồi tham gia vào nhà thờ của họ. Đây luôn luôn là tà giáo xưa cũ rồi, đức tin nơi Chúa Jêsus thêm vào nhiều việc khác nữa.
Trong tuần lễ nầy, Giáo hội Vatican đã phát ra tập tài liệu 36 trang có đề tựa là Dominus Jesus có sự tán thành đầy đủ của Giáo Hoàng John Paul. Bản tài liệu nầy nói rằng trong khi Chúa Jêsus mở ra con đường cứu rỗi cho toàn thể nhân loại, sự đầy đủ ý nghĩa của ơn cứu rỗi chỉ được thấy có trong Giáo hội Công giáo. Theo tờ Religion Today, tài liệu của Vatican cũng công bố rằng các nhà thờ Cơ đốc khác đều có "những khuyết điểm" vì họ không công nhận uy quyền của Giáo Hoàng.
Tin lành của ân điển, ấy là con người được cứu bởi không tin vào sự thành tựu. Đức tin mà thêm vào bất cứ điều chi khác là một sự xuyên tạc, bóp méo tin lành và là sự phản bội về mặt thuộc linh.
III. SỰ HỦY DIỆT. Cảnh cáo tất cả các giáo sư giả (các câu 8-9).
A. Xác định sự cảnh cáo. Người ấy đáng bị anathem.
Lên tới điểm nầy, Phaolô đã nói với những kẻ nào đang đùa bỡn với việc tiếp nhận "một tin lành khác". Ông đang viết cho những tín đồ Galati nào đã rơi vào mối nguy hiểm của việc phản bội về mặt thuộc linh. Giờ đây ông xây ngòi viết của mình hướng vào các giáo sư giả nào gây "rối" cho họ và "đánh đổ" tin lành.
Hai lần, cả trong câu 8 và câu 9, Phaolô nói nếu có ai dạy bất kỳ tin lành nào khác "người ấy đáng bị anathem". Anathem và một từ ngữ rất nặng nề. Từ ngữ Hy lạp là anathema. Từ nầy được sử dụng trong Bản Kinh Thánh 70, bản Cựu Ước Hy lạp nói tới sự cấm đoán thiêng liêng, bất kỳ ai hay bất cứ điều chi bị định cho sự hủy diệt.
Một hình ảnh xa xưa về ý nghĩa của anathema được thấy có trong câu chuyện nói tới Acan trong Giôsuê 7. Đức Chúa Trời phán rằng tất cả các chiến lợi phẩm ở thành Giê-ri-cô đáng bị "rủa sả". Họ không được lấy một thứ gì sau khi thắng trận. Acan đã bất tuân và đem giấu các thứ chiến lợi phẩm trong trại của mình. Ông ta đã bị ném đá cho tới chết vì cớ tội lỗi ấy.
Khi Phaolô nói "Nhưng nếu có ai truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin Lành chúng tôi đã truyền cho anh em, thì người ấy đáng bị a-na-them!" Ông đang thốt ra ao ước của ông, rằng một người thể ấy phải sa vào sự phán xét của Đức Chúa Trời, nghĩa là người đó đã bị định cho sự hủy diệt. Tư tưởng của Phaolô được đóng trong hai dấu ngoặc kép: "Nếu ngươi nào tìm cách vặn cong hay thêm bất cứ điều chi vào tin lành mà quí vị đã tin theo, người ấy đáng bị thiêu đốt ở trong địa ngục!"
II Têsalônica 1.8-9 chép: "…những kẻ chẳng hề nhận biết Đức Chúa Trời, và không vâng phục Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh hiển của quyền phép Ngài".
Mong ước của Phaolô, ấy là người Galati sẽ xem trọng lời dạy của ông và chối bỏ các giáo sư giả. Nếu họ bị Đức Chúa Trời định phải hủy diệt, nếu họ bị "anathem", thì người Galati phải từ chối đừng có quan hệ chi với họ. Sứ đồ Giăng cảnh cáo: "Nếu ai đến cùng các ngươi mà không đem đạo ấy theo, thì chớ rước họ vào nhà, và đừng chào hỏi họ. Vì người nào chào hỏi họ, tức là dự vào công việc ác của họ" (2 Giăng 10-11).
Tôi có nhiều bạn bè trong các Hội thánh khác nhau tại thành phố nầy và trên khắp thế giới. Tôi không nhất trí với họ trên từng vấn đề thuộc về giáo lý. Tôi đồng ý với họ rằng chúng ta được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời, rằng đức tin nơi sự chết có tính cách hy sinh, sự chôn và sự sống lại của Đấng Christ là phương thức duy nhứt để được cứu. Tôi đồng ý được cứu bởi ân điển mà không thêm một điều chi khác vào. Tôi có mối giao thông với những Cơ đốc nhân nào đang tin theo các giáo lý khác ở một số vấn đề, nhưng tôi không hề có mối tương giao với người nào đáng bị anathem hết!
John Piper viết: "Phaolô không có kẹo cho tin lành đâu. Ông không đưa ra những nụ cười ngọt ngào trong cuộc tranh cãi và nói: "Mỗi người tùy theo sức riêng mình". Đối với Phaolô Tin lành của Đấng Christ là điểm tại đó sự sống của Đức Chúa Trời chạm đến đời sống của kẻ dại dột tội lỗi đang sống trong thế gian nầy. Và khi sự cung ứng ân điển đời đời đó cho một tạo vật hoàn toàn bất xứng giống như chúng ta bị chối bỏ hay bị xuyên tạc, vặn cong hầu làm thoả mãn thái độ kiêu ngạo của chúng ta thì ở một chỗ nào đó, có ai đó sẽ nổi giận vì tính cách ghê gớm của tội ác. Ồ, chúng ta cần phải suy gẫm về sự kinh khiếp của việc chối bỏ tin lành là dường nào. Satan đang làm hết sức mình với vô tuyến truyền hình và radio để tạo trong chúng ta một tâm trí tầm thường, vô vị, nhỏ nhen, và trần tục đến nỗi chúng ta thấy mình không có khả năng cảm xúc lẽ thật đáng kinh khiếp là ngần nào trong từ ngữ anathema nầy. Ồ, chúng ta cần phải canh chừng mình trước đập chắn của bộ môn giải trí chối bỏ cõi đời đời kia. Chúng ta cần phải gieo ra một trí tưởng tượng trong sạch và giống như con trẻ, trí ấy lắng nghe một từ như anathema theo cách một đứa trẻ lắng nghe hồi sấm sét đầu tiên, hay cảm xúc trận động đất đầu tiên, hoặc chịu đựng cơn giông bão đầu tiên ngoài biển cả. Kinh Thánh không tỏ ra cho chúng ta thấy sự rủa sả đời đời của Đức Chúa Trời khi chúng ta vừa ngáp vừa lật đọc Kinh Thánh. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời đã được tỏ ra để làm cho những người vô tín phải ra khỏi tình trạng kỳ dị của họ và để cất bỏ thái độ kiêu căng ra khỏi sự ăn ở của Cơ đốc nhân và sự vênh váo ra khỏi giọng nói của họ. Đừng đọc lướt qua hai câu 8 và 9. Có sự hạ mình, điều độ, và nên thánh cần phải có ở đây. Hãy suy gẫm những điều nầy trong chỗ tĩnh mịch" (www.soundofgrace.com/piper83/020683.htm).
Câu nói nầy nhắc cho tôi nhớ tới một câu nói đời xưa: "Quí vị có mặt ở đó, khi họ đóng đinh Chúa của tôi trên thập tự giá không? Ồ, đôi khi sự việc ấy làm cho tôi phải run sợ, run rẩy và, run lắm…".
B. Phần ứng dụng chung của lời cảnh cáo. Các vị sứ đồ, những thiên sứ, bất kỳ ai.
Phaolô nói trong câu 9: "Tôi đã nói rồi, nay lại nói lần nữa: Nếu ai truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin Lành anh em đã nhận, thì người ấy đáng bị a-na-them!"
Vị sứ đồ không thể thay đổi Tin lành. Ông nói: "Thậm chí nếu…". Giống như Phaolô đang nói: "Ngay cả tôi là người đem Tin lành đến cho anh em cũng chẳng có quyền làm thay đổi được Tin lành ấy. Tin lành ấy chẳng phải là tài sản của tôi mà là của Đức Chúa Trời. Dầu là thiên sứ cũng không thể thay đổi được Tin lành đó".
Chúng ta không cần tiếp nhận một sự vặn cong, bóp méo nào đối với sứ điệp cho dù sứ điệp ấy đến từ "thiên sứ trên trời". Phần nhiều người trong quí vị đều biết Joseph Smith, nhà sáng lập hệ phái Mormon đã nói rằng một thiên sứ tên là Moroni đã giúp cho ông ta khám phá và đọc được mấy tấm bảng làm bằng vàng mà chẳng thấy thắc mắc về “một tin lành khác” đối với mọi điều mà Phaolô đã rao giảng. Ngày nay một bức tượng Moroni được dựng đứng trên đền thờ của hệ phái Mormon ở thành phố Salt Lake. Thật là kinh khủng khi một sự bóp méo, vặn cong tin lành như thế có thể lớn lên, lớn lên khi Kinh Thánh cảnh cáo rõ ràng về mọi mối nguy hiểm của việc làm đó!
C. Sự lặp đi lặp lại lời cảnh cáo. Tôi lại nói nữa.
Trong câu 9, Phaolô nói: "Tôi đã nói rồi, nay lại nói lần nữa: Nếu ai truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin Lành anh em đã nhận, thì người ấy đáng bị a-na-them!" Trong khi không một sứ đồ nào hay bất kỳ thiên sứ nào trên trời dám rao giảng "một tin lành nào khác" chắc chắn có những kẻ sẽ và vẫn còn làm thế.
Kinh Thánh thường nhắc lại các từ và mệnh đề chính để nhấn mạnh. Điều nầy khiến cho chúng ta phải chú ý cho thật kỹ càng. Nếu một sứ đồ, một thiên sứ vặn cong, hay bóp méo tin lành không cứ cách nào, nhân vật ấy sẽ bị "anathem", bị dành cho sự hủy diệt. Nhân vật đó sẽ bị hoả thiêu trong địa ngục. Nếu có ai xuyên tạc sứ điệp trong sáng nói tới ân điển lạ lùng của Đức Chúa Trời, Phaolô nói: “Nguyện Đức Chúa Trời giáng cơn thạnh nộ công bình của Ngài trên người đó”.
IV. SỰ QUYẾT ĐỊNH. Làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là điều ưu tiên một (câu 10).
Phaolô nói trong câu 10: "Còn bây giờ, có phải tôi mong người ta ưng chịu tôi hay là Đức Chúa Trời? Hay là tôi muốn đẹp lòng loài người chăng? Ví bằng tôi còn làm cho đẹp lòng người, thì tôi chẳng phải là tôi tớ của Đấng Christ".
Eugene Peterson đã viết: "Có phải quí vị nghĩ tôi nói mạnh vấn đề nầy để lôi kéo đám đông sao? Hay nịnh bợ để được đẹp lòng Đức Chúa Trời? Hoặc để nhận được sự tán thưởng sao? Nếu mục tiêu của tôi là được lòng người, tôi sẽ không màng tới việc trở thành tôi tớ của Đấng Christ đâu". Nếu quí vị đang ra sức lấy lòng bạn bè và ảnh hưởng trên người khác, quí vị không phải đi lòng vòng nói rằng các vị giáo sư của họ chỉ có thể đi tới địa ngục mà thôi. Ưu tiên một của Phaolô không phải là làm đẹp lòng người ta, mà là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Cách đây nhiều năm, khi tôi gánh vác chức vụ trọn thời gian của mình lần đầu tiên, vị cố vấn trước đây của tôi là James Kirkland đã mời tôi đến giảng một loạt nhiều buổi thờ phượng trong Hội thánh của ông. Tôi đâm hoảng ngay. Làm sao tôi có thể rao giảng trước mặt ông và một hội chúng thường được rao giảng theo kiểu chú giải cơ chứ!?! Khi tôi đứng giảng ở buổi thờ phượng đầu tiên, Jim đến ngồi ngay hàng ghế đầu. Tôi cứ nhìn thẳng vào ông khi tôi bắt đầu phần giới thiệu và ông đã gật gù với sự tán thưởng. Thỉnh thoảng tôi nhìn về phía cử toạ, ông là mục tiêu chính khi tôi chuyển qua các tiêu đề chính. Ông mĩm cười và thỉnh thoảng thốt ra "amen" thật nhẹ nhàng. Đến phần kết thúc, tôi thấy thật vững lòng và đầy yên ủi. Đối với tôi, người nào tiếp tục ngủ gà ngủ gật hay bỏ ra về thì không thành vấn đề. Nếu vị cố vấn của tôi ban ra cho tôi sự tán thưởng của ông, tôi biết mình đã làm tròn phận sự rồi.
Mong ước của Phaolô là cứ phải giữ mắt nhìn chăm vào Chúa Jêsus. Ông nói trong II Côrinhtô 5.9: "Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể nầy, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa". Hêbơrơ 12.2 buộc chúng ta phải "nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin…".
Khi tôi còn là Mục sư chuyên trách thanh niên, nhóm thanh niên của tôi tham gia vào trò chơi chiến tranh có tên là "Flashlight Wars". Ngày nay, nhóm thanh niên của chúng tôi đang chơi paintball. Chúng tôi thường trao cho ai đó đèn pin rồi đi ra ngoài vào ban đêm. Chúng tôi chia thành hai nhóm và nhận lấy hai lá cờ. Quí vị bị thua trò chơi nếu có ai đó chiếu đèn pin vào mặt mình và gọi đích danh quí vị. Có hai chiến thuật. Một là phải canh chừng ngọn cờ của mình rồi tìm cách bấm đèn vào mặt địch thủ khi họ tấn công. Chiến thuật kia là phải tấn công vào vị trí ngọn cờ phe nghịch bằng sức mạnh và hy vọng rằng ai đó sống sót để cướp lấy ngọn cờ của đội kia.
Là những người tin Chúa, chúng ta thường được kêu gọi để giữ lấy đồn lũy, để chiến đấu cho quyền lợi của những người chưa được tái sanh, để làm sạch những con đường khiêu dâm, để giữ sự tự do tôn giáo trong các trường công lập của chúng ta. Tuy nhiên, có những lúc chúng ta phải tấn kích, chúng ta phải đoạt cho kỳ được lá cờ. Khi có sự phản bội về mặt thuộc linh, khi tin lành bị ruồng bỏ và bị bóp méo, vặn cong; giống như Phaolô chúng ta phải tấn công. Nếu có ai rao giảng bất kỳ một tin lành nào khác, nguyện người ấy sẽ bị anathem.

Galati 1.1-5: "Tự do vào lúc sau cùng!"



Tự do thực – Sách Galati
Tự do vào lúc sau cùng!
Galati 1.1-5
Chẳng ai hiểu thấu sự tự do cho bằng người nô lệ. Henry Bibb là một nô lệ ở một đồn điền tại Kentucky nằm sát dòng sông Ohio. Đối với ông, dòng sông là một hố sâu phân cách khó có thể vượt qua. Ông viết: “Tôi không có một cây gậy nào để dùng đập xuống dòng sông cả, để nhờ đó mà làm phân rẽ nước được. Tôi cũng không có một Môise nào để đi trước mặt tôi rồi dẫn tôi bước vào con đường từ nô lệ đến một vùng đất hứa. Tuy nhiên, tôi đã ở trong một tình trạng còn tệ hại hơn là nô lệ ở Ai cập nữa; vì họ có nhà cửa và đất đai, còn tôi thì chẳng có chi hết; họ có bầy bò và bầy chiên, tôi chẳng có bầy nào hết; họ có đấng tiên kiến khôn ngoan để nói cho họ biết phải làm gì, và phải đi đâu, thậm chí cùng đi với họ nữa, còn tôi chẳng có ai hết. Có khi đứng bên dốc bờ sông Ohio, nhìn qua một vùng đất tự do, mắt tôi có thể nhìn thấy xa xa ở phía Bắc, tôi đã liếc nhìn lên bầu trời xanh lơ tự do ở phương Bắc, có nhiều lúc cái nhìn ấy buộc tôi phải gào thét từ sâu thẳm linh hồn tôi… Ôi, chớ chi tôi có đôi cánh của chim bò câu, để tôi bay tới chỗ không còn có tình trạng nô lệ, không còn có tiếng lách cách của xiềng xích, không có cảnh phu tù, không còn cảnh rách lưng, không còn cảnh chia lìa chồng vợ, và ở đó con người thôi không còn là tài sản của kẻ đồng loại mình. Các tư tưởng nầy đã thoắt hiện trong tâm trí tôi cả ngàn lần. Tôi đã đứng trên bờ cao ngất của sông Ohio, liếc nhìn những chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước… và tôi nghĩ tới các loài cá của con sông, bầy chim trên khoảng không, bầy dã thú ở trong rừng, hết thảy đều sống trong tự do, muốn đi đâu tùy ý, và tôi là một gã nô lệ bất hạnh!" Những người nô lệ đã cất tiếng hát thật tình cảm khi kiếm được sự tự do trong tình trạng thuộc linh của họ qua các bài hát: "Nhất định tôi phải đến Đất Hứa", "Tôi biết tôi đang đi về quê hương", và "Chúa nhớ đến tôi".
Tình trạng nô lệ là con "rắn cuộn mình nằm dưới bàn họp của quốc hội". Vì các tổ phụ sáng lập nước đã thất bại không xử lý với sự rủa sả chết chóc vào thập niên 1770, con cháu của họ đã đổ huyết ra trên hàng trăm bãi chiến trường hầu cất bỏ vết uế của nó trong thập niên 1860. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1862, Tổng Thống Abraham Lincoln đã tuyên bố tất cả các nô lệ đều được tự do trong Bản Tuyên Ngôn Giải Phóng nổi tiếng của ông (The Emancipation Proclamation). Bản tuyên ngôn nầy mong mỏi qua việc giải phóng các nô lệ, họ sẽ rời khỏi các đồn điền và trợ giúp cho phương Bắc. Chương trình đã không được thực thi như ý muốn. Không ai có ý kiến gì, phải làm gì với hạng nô lệ một khi họ được tự do. Khi chiến tranh qua đi rồi, đa số trong vòng họ phải rơi vào cảnh sống nghèo khổ giống như những người chuyên sống bằng nghề xâm canh vậy. Vào năm 1876, Fredrick Douglas đã viết: "Quí vị nói quí vị giải phóng chúng tôi. Quí vị đã làm điều đó; và tôi cảm ơn quí vị về điều đó. Nhưng giải phóng là gì chứ? Khi dân Israel được giải phóng, họ được truyền cho phải ra đi và hỏi mượn của người lân cận họ – mượn tiền bạc, mượn nữ trang, chất đầy trên lưng họ với các phương tiện để sống còn; sau đó, họ còn được tự do đi vào xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời đã ban cho họ… Thế nhưng khi quí vị đẩy chúng tôi ra chỗ thoải mái hơn một chút, quí vị chẳng cho chúng tôi mẫu đất nào cả. Quí vị cho chúng tôi thoải mái với bầu trời, với giông bão, với gió lốc và tệ hơn hết, quí vị cho chúng tôi thoải mái trước cơn thạnh nộ của những ông chủ của chúng tôi, họ đang tức điên lên kia kìa". Họ bị đổi từ loại nô lệ nầy sang một loại nô lệ khác.
Mặc dù đã thắng cuộc chiến. Thậm chí các nô lệ đã được phóng thích ra khỏi xiềng xích của họ, cuộc tranh chiến chưa hết đâu. Martin Luther King, Jr. vị lãnh tụ nhân quyền đã phát ra một bài giảng có tính cách tiên tri ở khu phố buôn bán lớn ở Washington D.C. vào năm 1963. Lời lẽ của ông như có acid khắc ghi trong trí nhớ của chúng tôi cũng y như trên tấm mộ bia của ông vậy. Ông đã nói ra lời lẽ của một lời thuộc linh xưa: "Tự do vào lúc sau cùng, tự do vào lúc sau cùng! Cảm tạ Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi đã được tự do vào lúc sau cùng”.
Chúng ta không có mặt ở đây để tiếp thu một bài sử học, mà là để đào sâu quyển sách quan trọng của Tân Ước, đó là sách Galati. Lẽ đạo của loạt bài nghiên cứu trong 18-20 tuần lễ nầy là tự do, tự do ở ngoài luật pháp, tự do ở ngoài tội lỗi. Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 8.36: "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do". Là tín đồ trong Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta được tự do vào lúc sau cùng và là tự do thực!
Sách Galati được gọi là “Hiến Chương Tự Do Thuộc Linh” (The Magna Carta of Spiritual Liberty), "Tiếng kêu từ bãi chiến trường của công cuộc cải chánh" "Tuyên Ngôn Độc Lập của Cơ đốc nhân". Martin Luther, nhân vật cải chánh người Đức (ông còn được gọi là nhà lãnh đạo về nhân quyền) đã viết: "Thư tín Galati là bức thư của tôi. Tôi gắn bó với thư tín ấy, cũng như nó đã ở trong tình trạng kết hôn với tôi vậy. Sách Galati là Katherine [tên của vợ ông] của tôi".
Sách Galati là động lực thuộc linh. Đó là một câu nói đầy quyền lực mô tả các lẽ thật trọng tâm của Cơ đốc giáo. Có người nói: "Quí vị không thể đọc sách Galati rồi cứ nghĩ: ‘Được thôi, đây là một mảng rất thú vị trong sự suy gẫm về tôn giáo’ – còn hơn là quí vị có thể xem xét một hòn than sống với hai bàn tay trơ trụi của mình".
Chúng ta sẽ bắt đầu phần nghiên cứu mới mẻ nầy bằng cách xem xét bộ khung – lai lịch tiểu sử của quyển sách và tái khẳng định trong lòng mình hai nền tảng sự tự do thuộc linh của chúng ta.
I. Đặt bộ khung cho quyền tự do của chúng ta.
A. Tác giả – Sách nầy do ai viết!?!
Khi tôi nhận một lá thư, trước tiên là tôi nhìn vào địa chỉ người gửi. Tôi muốn biết bức thư nầy do ai gửi đến. Nếu không có địa chỉ nơi gửi đến, tôi mở bức thư ra rồi nhìn nhanh vào cuối thư để xem coi ai viết ra nó. Trong kỷ nguyên Tân Ước, thư tín luôn luôn có tên tác giả trước hết để quí vị không phải mở cả cuộn giấy ra để truy tìm xem ai đã viết ra cuộn giấy đó. Ở đây chúng ta thấy tác giả là "Phaolô".
Chúng ta biết từ sách Công Vụ các Sứ Đồ rằng Phaolô từng được gọi là Saulơ. Ông đã được nuôi dạy trong một gia đình Do thái rất nghiêm ngặt và đã thấm sâu vào hình thái truyền khẩu của người Do thái. Ông đã được ăn học trong ngôi trường "đại học nổi tiếng" của Gammaliên. Có lẽ ông là chi thể trong giai cấp thống trị của Israel, Toà Công Luận. Ông là một người Pharisi rất sốt sắng.
Ông dấy lên trong sự tôn trọng giữa vòng những người đồng thời với mình lo bắt bớ rất nghiệt ngã Hội thánh đầu tiên. Công Vụ các Sứ Đồ 7.58 chép ông đã đứng bên cạnh người tuận đạo đầu tiên, Êtiên đã bị ném đá chết. Những người chứng kiến "lấy áo xống mình để nơi chơn một người trẻ tuổi kia tên là Sau-lơ". Công Vụ các Sứ Đồ 8.3 chép: "Nhưng Sau-lơ làm tàn hại Hội thánh: sấn vào các nhà, dùng sức mạnh bắt đờn ông đờn bà mà bỏ tù".
Công Vụ các Sứ Đồ 9 tìm gặp Saulơ đang trên đường đi lên thành Đa-mách "chỉ hằng ngăm đe và chém giết môn đồ của Chúa không thôi" (câu 1). Trên đường, một tia sáng chói lọi chiếu xuống từ trời và ông nghe tiếng nói của Chúa Jêsus. Bởi tia sáng ấy, Saulơ đã bị mù và gọi Chúa Jêsus là "Chúa". Ông đi lên thành Đa-mách và đã được một môn đồ có tên là Anania tiếp đón. Chúa phán về Saulơ với Anania: “Hãy đi, vì ta đã chọn người nầy làm một đồ dùng ta, để đem danh ta đồn ra trước mặt các dân ngoại, các vua, và con cái Y-sơ-ra-ên; ta lại sẽ tỏ ra cho người biết phải chịu đau đớn vì danh ta là bao nả" (các câu 15-16). Saulơ về sau đã trở thành Phaolô. Kẻ bắt bớ đã trở thành người chịu bắt bớ. Ông đã liên tục ít nhất tham dự ba chuyến hành trình truyền giáo đem nhiều người trở lại đạo và thiết lập nhiều Hội thánh. Bởi sự cảm thúc của Đức Thánh Linh, Phaolô đã viết ra 13 sách trong Tân Ước.
B. Người nhận – Ai là người nhận!?!
Việc thứ hai tôi muốn biết khi tôi tiếp nhận một bức thư là thư nầy được viết cho ai!?! Bất cứ một lá thư nào viết cho "người nhận" đều nhập vào "Hồ sơ số 13". Nếu họ không biết tên tôi, hay không thể đề tên tôi, tôi không đọc thư ấy đâu.
Câu 2 của phân đoạn Kinh Thánh gốc cho chúng ta biết thư tín nầy đã được viết cho "các Hội thánh của xứ Galati". Đây không phải là bức thư gửi cho một nhân vật hoặc thậm chí một Hội thánh đặc biệt, mà viết cho các Hội thánh thuộc khu vực xứ "Galati". Mặc dù còn có nhiều hơn thế nữa, Công Vụ các Sứ Đồ 13-14 ghi lại thể nào Phaolô và Banaba trên chuyến hành trình truyền giáo đầu tiên thiết lập nhiều Hội thánh ở Antiốt Bisiđi, Ycôni, Lít-trơ và Đẹt-bi ở giữa sự bắt bớ lớn lao từ người Do thái.
C. Niên đại – Bức thư đã được viết ra vào lúc nào!?!
Tôi cũng muốn biết bức thư gửi cho tôi đã được viết ra và gửi đi từ lúc nào. Thư tín Tân Ước nầy có lẽ đã được viết ra vào khoảng giữa các năm 48-50SC, khoảng 15 năm sau khi Chúa Jêsus chịu chết, chịu chôn và sống lại.
D. Mục đích – Thư tín viết về cái gì!?!
Khi tôi mở lá thư ra, tôi muốn biết lý do tại sao tôi đã nhận lấy nó. Tôi đang nhận lá thư riêng với lòng trông đợi bạn bè hay những lời khích lệ tôi. Tôi đang nhận lãnh một lá thư nói cho tôi biết tôi mắc nợ tiền bạc. Tôi đang nhận một lá thư yêu cầu tôi dâng hiến tiền bạc vì nhiều lý do khác nhau. Tôi luôn luôn muốn biết mục đích của bức thư là gì!?!
Mục đích của Phaolô khi viết ra thư tín Galati là tỏ ra cho họ biết sự tự do của họ trong Đấng Christ. Có lẽ giáo lý của toàn bộ thư tín nầy đã được tóm tắt hay nhứt trong 5.1: "Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa".
Sau khi Phaolô thiết lập các Hội thánh mới nầy và chỉ định những trưởng lão lãnh đạo họ, sự dạy giả dối đã ăn luồng vào bên trong. Người Do thái đã bắt bớ Phaolô đang khi ông thi hành chức vụ trong khu vực, họ đã xâm nhập vào các Hội thánh. Họ được gọi là những người theo Do thái giáo. Họ đã dạy dân sự rằng muốn thực sự được cứu họ cũng phải chịu phép cắt bì nữa. Để duy trì ơn cứu rỗi, họ phải giữ luật lệ của Cựu Ước. Đây đúng là dị giáo!
Kinh nghiệm của tôi, ấy là các Hội thánh mới thường lôi cuốn dân sự với các chương trình đã được sắp xếp hẳn hoi. Họ có thời gian chịu khó gây ảnh hưởng các Hội thánh mới vừa được thiết lập vì có nhiều cấp lãnh đạo và sự trưởng thành của họ. Trong một Hội thánh mới, dầu một người hay một nhóm nhỏ dân sự, họ thường nắm lấy quyền hành ở nơi có nhiều tín đồ mới và chưa trưởng thành.
Những kẻ Do thái giáo nầy đang nói rằng Phaolô chưa thực sự là một sứ đồ và sứ điệp của ông là "ân huệ rẻ tiền" hay "hình thức tin đạo dễ dàng quá". Họ nói một người đã được cứu bởi đức tin phải thực hiện thêm các nghi thức, luật lệ và việc lành. Phaolô viết thơ Galati nói rằng ơn cứu rỗi là bởi ân điển nhờ đức tin MÀ CHẲNG PHẢI THÊM VÀO MỘT ĐIỀU CHI KHÁC… không cắt bì, không báp-têm, không địa vị thuộc viên, không việc lành, không tương giao, không tuân giữ luật pháp.
Lẽ đạo của thơ Galati không phải là đổi từ một hình thức nô lệ nầy sang một hình thức khác. Sau cuộc nội chiến giai cấp nô lệ đã được buông tha để sống nô dịch nghèo rớt mồng tơi. Chủ nghĩa Cộng sản hứa hẹn sự tự do không còn bị lấn lướt bóc lột bởi người giàu, thế nhưng nó đã đem lại tình trạng nô dịch kinh tế còn tệ hại hơn.
Con người sẽ chuyển từ hình thái nô dịch nầy sang một hình thái nô dịch khác. Một thanh niên tìm kiếm sự tự do trong việc tiệc tùng với bạn bè. Thế rồi rượu chè, ma túy và hoạt động tình dục chỉ là sự tự do nhất thời, chúng trói buộc anh ta trong xiềng xích mà anh ta không thể phá vỡ nổi. Một người trung niên thấy mình chán nản và ao ước được tự do như lứa tuổi thanh niên. Ông ta tìm kiếm sự thoả mãn trong một mối quan hệ tà dâm. Không bao lâu sau đó, ông ta đã đổi từ một hình thái nô lệ nầy để lấy một hình thái nhiều đau khổ hơn trước. Có người cảm thấy bị trói buộc bởi các truyền thống của Hội thánh họ rồi họ tìm kiếm sự tự do trong một kiểu cách say sưa, ngây ngất của Hội thánh mới xuống đường phố hoặc những lời hứa trống rỗng của nhà truyền đạo trên TV hay tệ hại hơn những lời dối trá của một hệ thống thờ lạy hình tượng. Trước đó khá lâu, người nầy đã thôi không suy nghĩ tới bản thân mình và cứ bám lấy từng lời lẽ của vị lãnh đạo mới của mình. Đấy là tình trạng nô lệ.
Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 8.36: "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do". Đó là mục đích. Chúng ta không cần phải thay đổi từ một hình thái nô lệ nầy để lấy một hình thái khác, mà phải học biết mình đã được "tự do thật" trong sự tự do của Chúa.
II. Thiết lập các nền tảng của sự tự do.
Năm câu đầu tiên nầy là một lời chào thăm hay là lời giới thiệu. Phaolô không bắt đầu bằng cách ngợi khen họ như ông ngợi khen trong các thư tín khác của Tân Ước, mà ông nhắm thẳng vào vấn đề ngay. Có hai nền tảng chính ở đây.
A. Phaolô vốn có uy quyền của sứ đồ (các câu 1-2).
Thứ nhứt, Phaolô là một sứ đồ. Ông mô tả bản thân ông là: "Phaolô, làm sứ đồ". Từ ngữ nầy có ý nói "một người được sai phái". Một sứ đồ ra đi trong thẩm quyền và danh xưng của Chủ mình. Mặc dù từ ngữ "sứ đồ" đôi khi đã được sử dụng theo một ý nghĩa chung chung, chủ yếu nó đề cập tới một nhóm người được chọn đã được ủy thác bởi Chúa Jêsus để đặt nền tảng cho Hội thánh. Êphêsô 2.20 chép Hội thánh đã "được dựng lên trên nền của các sứ đồ cùng các đấng tiên tri, chính Đức Chúa Jêsus Christ là đá góc nhà". Một sứ đồ là người đã nhìn thấy Đấng Christ phục sinh, đã được Ngài dạy dỗ và ủy thác. Chẳng có một người kế tục nào trong các vị sứ đồ, lời lẽ cảm thúc của họ cũng vậy.
Ông thắc mắc trong I Côrinhtô 9.1:
"Tôi chẳng được tự do sao? Tôi chẳng phải là sứ đồ sao? Tôi há chẳng từng thấy Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta sao? Anh em há chẳng phải là công việc tôi trong Chúa sao?" Ông làm chứng trong I Côrinhtô 15.8-9: "Rồi lại, sau những người ấy, Ngài cũng hiện ra cho tôi xem, như cho một thai sanh non vậy. Vì tôi là rất hèn mọn trong các sứ đồ, không đáng gọi là sứ đồ, bởi tôi đã bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời". Ông nói trong Galati 2.8: "vì Đấng đã cảm động trong Phi-e-rơ để sai người làm sứ đồ cho những kẻ chịu cắt bì, cũng cảm động trong tôi để sai tôi làm sứ đồ cho dân ngoại".
Thứ hai, thẩm quyền của Phaolô không đến từ loài người hay qua con người. Quí vị có để ý trên các bản tin của đài phát thanh địa phương chúng ta trước khi nhân viên chuyên về thời tiết đưa ra tường trình về thời tiết, người luôn luôn được giới thiệu như đang có dấu ấn nhất trí từ Hội Khí Tượng Học Mỹ vậy không? Tại sao họ lại nhất trí như thế chứ? Họ muốn chúng ta phải nhìn biết rằng các anh chàng thời tiết nầy đều có bằng cấp, được chấp thuận, và có thẩm quyền. Họ muốn chúng ta phải nghe theo và tin vào sự họ tiên đoán.
Phaolô trình bày ngắn gọn địa vị sứ đồ của ông "chẳng phải bởi loài người, cũng không nhờ một người nào". Ông không trở thành một sứ đồ bởi sự chứng thực của một số Hội thánh hay qua việc đặt tay của một số hội chúng. Các giáo sư giả trong xứ Galati nói ở đó: "Phaolô nầy là ai? Hắn ta là một sứ đồ tự phong. Đừng tin hắn". Chiến lược của họ là nếu người ta nghi ngờ thẩm quyền của Phaolô, họ sẽ nghi ngờ sứ điệp của ông và dễ dàng chao đảo. Phaolô viết lời biện hộ nầy không phải để tự biện hộ mà là biện hộ cho sứ điệp ông đã công bố ra. Tin Lành đang bị đe doạ.
Thứ ba, thẩm quyền của Phaolô đã đến qua Đức Chúa Jêsus Christ và Đức Chúa Cha. Phaolô là một sứ đồ bởi sự chỉ định thiêng liêng. Ông là "cái bình được chọn" của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus đã hiện ra cùng ông trên con đường đi đến thành Đa-mách. Chúa Jêsus đã dạy dỗ và đã uỷ thác sứ mệnh cho ông. Hãy chú ý các câu 16-17. Phaolô đã "lập tức chẳng bàn với thịt và máu" ông cũng không "lên thành Jerusalem" để tiếp thu ý kiến của các vị sứ đồ khác. Thẩm quyền của ông đã đến trực tiếp từ Đức Chúa Trời.
Thứ tư, thẩm quyền của Phaolô đã được anh em của ông công nhận. Khi ông gửi lời chào thăm, ông nhắc cho người thành Galati nhớ đến "hết thảy anh em ở với tôi". Phaolô không nhận lãnh thẩm quyền từ "anh em" mình, mà họ đã công nhận hay đã khẳng định địa vị sứ đồ của ông.
Quí vị nói: "Thưa Mục sư, tôi biết Phaolô là một sứ đồ? Vậy sao điều nầy có gì quan trọng chứ?" Thẩm quyền sứ đồ của Phaolô là một "nan đề lớn" vì lắng nghe một vị sứ đồ là lắng nghe Chúa Jêsus. Chúa Jêsus đã phán về 12 sứ đồ nguyên thủy trong Mathiơ 10.40: "Ai rước các ngươi, tức là rước ta; ai rước ta, tức là rước Đấng đã sai ta". Lắng nghe Phaolô là lắng nghe Đấng Christ. Ông không viết với thẩm quyền của riêng mình mà với uy quyền của thiên đàng! Khi quí vị đọc sách Galati, quí vị đang đọc Lời của Chúa!
Các nhà thần học tự do nói rằng kinh nghiệm của họ cũng chắc chắn như kinh nghiệm của Phaolô, vì lẽ đó ý kiến của họ cũng mang một gánh nặng giống như ý kiến của Phaolô vậy. Vì thế, họ tự do bất đồng với Kinh Thánh. Giáo lý Công giáo La mã cho rằng Giáo hội của họ đã viết ra Kinh Thánh, vì lẽ ấy Giáo hội có thẩm quyền lớn hơn Kinh Thánh và có thể thêm sự khải thị vào đó. Phaolô không phải là sứ đồ của Hội thánh mà là sứ đồ của Chúa!
Ngày nay, có nhiều người kêu la với Đức Chúa Trời về một số mặc khải. Họ muốn một kinh nghiệm, một chiêm bao, một sự hiện thấy hay một thứ tiếng lạ thật mạnh mẽ. Thế mà họ chẳng thực hiện một nổ lực nào để hiểu chính lời lẽ của Chúa đã được tỏ ra rồi trong quyền Kinh Thánh của họ!
Có ít sự đầu phục đối với Lời của Đức Chúa Trời qua các vị sứ đồ của Ngài trong hầu hết các Hội thánh ngày nay. Người ta đến với quí Mục sư hay tiên kiến xin giúp đỡ để tìm biết lẽ thật trong Kinh Thánh. Nhiều người giữ chặt lấy sự không thể sai lầm của Kinh Thánh, nhưng lại thất bại không áp dụng Kinh Thánh vào đời sống của họ. Nhiều nhà truyền đạo nói Kinh Thánh rất có uy quyền nhưng không bao giờ áp dụng lẽ thật của Kinh Thánh mà chỉ đưa ra những điều khái quát mơ hồ, không rõ ràng.
Khi các Hội thánh thất bại không tìm cách nhận biết và áp dụng Kinh Thánh, họ đã bị bắt làm nô lệ cho mọi truyền thống của họ. Phấn hưng chân chính và sự đổi mới không thể giống nhau được. Tín điều của nhà cải chánh là sola scriptura, "chỉ có Kinh Thánh thôi". Tất cả những cuộc phấn hưng quan trọng trong lịch sử đã đến khi Cơ đốc nhân bắt đầu vật vã với các phân đoạn Kinh Thánh và áp dụng các nguyên tắc đặc biệt vào cách ăn ở của họ.
Trong Hội thánh nầy, chúng ta nắm chặt lấy uy quyền của Lời Đức Chúa Trời. Chúng ta dạy dỗ Kinh Thánh cách cẩn trọng, trong lớp học và từ toà giảng. Thẩm quyền hiện không còn nằm trong thắc mắc nữa, mà chính là phần áp dụng đấy thôi. Chúng ta có thể gật đầu tôn kính đối với Ngôi Lời mà không sống theo nó. Chính vì vậy, khi có những tín đồ cá biệt, dân sự ngồi trong các hàng ghế bắt đầu học hỏi, ăn vào bụng, phân tích, xác định, và suy gẫm Ngôi Lời cho tới khi thay đổi thực sự xảy đến. Khi chúng ta làm theo điều đó, chúng ta đổi tư tưởng của mình để lấy tư tưởng của Ngài và kiếm được tâm trí của Đấng Christ!
B. Phaolô đã giảng về ân điển của Đức Chúa Trời (các câu 3-5).
Nếu từ ngữ chính đầu tiên là "sứ đồ", thì từ ngữ thứ hai phải là "ân điển". "Sứ đồ" là địa vị của Phaolô, còn "ân điển" là sứ điệp của ông.
Thứ nhứt, Chúa Jêsus đã phó chính mình Ngài trong ân điển để ban bình an cho chúng ta. Phaolô mở đầu từng thư tín của mình trong Tân Ước với các lời chào thăm "ân điển" "bình an". Đây là lời chào thăm Cơ đốc có tính phân biệt xuất phát từ trong cả xã hội dân Ngoại và người Do thái. Tuy nhiên, lời chào nầy còn hơn một sự phát biểu khá kỳ quặc nữa.
"Ân điển"NGUỒN của ơn cứu rỗi chúng ta. Êphêsô 2.8 chép: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu…". Chúng ta chẳng có một phương cách nào khác để kiếm hay đáng nhận được sự ưu ái của Đức Chúa Trời. "Bình an"KẾT QUẢ của ơn cứu rỗi chúng ta. Vì cớ ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta giờ đây có cả hai: "hoà thuận với Đức Chúa Trời" (Rôma 5.1) và sự "bình an của Đức Chúa Trời" (Philíp 4.6-7). Sự bình an thật là kỳ diệu, nhưng nó tuôn chảy ra từ ân điển của Đức Chúa Trời.
Thật là thú vị khi Phaolô bắt đầu tư tưởng mình với "Nguyền xin anh em được ân điển…" và kết thúc trong câu 5 với "vinh hiển" cho Đức Chúa Cha. Đấy là trái tim và linh hồn của của Tin lành. Nó mang ân điển đến cho con người và sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời!
Thứ hai, Chúa Jêsus giàu ơn phó chính mình Ngài vì cớ tội lỗi của chúng ta. Ân điển cho loài người và vinh hiển cho Đức Chúa Trời khả thi như thế nào? Sở dĩ nó khả thi chỉ vì "Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta là Đấng đã phó mình vì tội lỗi chúng ta". Phaolô cảnh cáo để nhắc nhớ những người Galati nầy, họ đang xây qua một đời sống nhắm vào luật lệ và nghi thức là khả thi để được cứu không nhắm vào sự chết có tính cách hy sinh của Chúa Jêsus nữa. Không một ai được cứu bởi khả năng riêng của mình hòng thắng hơn tội lỗi, trừ phi bởi lời hứa của Đức Chúa Trời Ngài tha tội qua sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá.
Charles Spurgeon và Joseph Parker cả hai đều làm chủ tọa nhiều Hội thánh lớn ở Luân đôn vào cuối thế kỷ thứ 19. Parker từng đưa ra một lời phê bình tiêu cực về tình trạng trẻ em ở viện mồ côi của Hội thánh mà Spurgeon đang làm chủ toạ. Có người học lại cho Spurgeon biết Parker đã chỉ trích chính viện mồ côi. Tuần sau ông dập Parker ngay tại bục giảng. Cuộc tấn công đã được đăng trên các tờ báo rồi trở thành cuộc trò chuyện của cả thành phố. Người nào đến nhóm ở nhà thờ của Parker ngày Chúa nhựt sau đó đều nghe lời tự sự của ông: "Tôi hiểu đây là ngày Chúa nhựt nhà thờ của Spurgeon thực hiện một của dâng cho viện mồ côi. Tôi đề nghị chúng ta nên có một của dâng yêu thương ở đây nữa". Đám đông lấy làm thích thú. Nhân sự tiếp tân đã đổ những đĩa tiền dâng ra tới 3 lần. Sau tuần đó đã có một cái chạm vào phần tiếp thu của Parker. Đó là Spurgeon. Ông nói: "Parker ơi, ông đã làm ơn cho tôi. Ông đã cho tôi không phải cái tôi đáng được, ông đã cho tôi cái mà tôi có cần". Chúa Jêsus không ban cho chúng ta điều chúng ta đáng được mà ban cho chúng ta những gì chúng ta có cần!
Thứ ba, Chúa Jêsus giàu ơn phó chính mình Ngài để giải cứu chúng ta. Phaolô nói rằng Chúa Jêsus đã chịu chết không những để tha tội cho chúng ta mà Ngài còn “cứu chúng ta ra khỏi đời ác nầy" nữa. Từ ngữ "cứu" có nghĩa là "kéo giật ra hay giải cứu". Từ nầy thường mô tả sự giải cứu Israel ra khỏi Ai cập, sự giải cứu bởi thiên sứ đưa Phierơ ra khỏi tù và sự giải cứu Phaolô ra khỏi đoàn dân đông ở tại thành Jerusalem. "Đời ác nầy" không ám chỉ đến khoảng thời gian mà là ám chỉ đến hệ thống thế gian của Satan sẽ thống trị cho tới chừng Chúa Jêsus tái lâm.
Một số người trong chúng ta ghi nhớ những chuyện đời xưa chiếu trên TV và trong điện ảnh, trong đó kẻ hung ác không có lòng thương xót cột chặt "cô gái đau khổ" vào đường ray xe lửa. Cô gái không thể tự cứu lấy mình được và nàng đã kêu la khủng khiếp lắm. Hy vọng duy nhứt của nàng là được một người hùng đến giải cứu. Chúng ta đã từng bị trói buộc bởi thế gian nầy. Satan đã cột chúng ta vào những đường ray của sự hủy diệt. Hy vọng duy nhứt của chúng ta đặt vào Chúa Jêsus, vị anh hùng của chúng ta.
Giờ đây chúng ta đã được cứu, Đức Chúa Trời không dời chúng ta ra khỏi "đời ác nầy" cho tới chừng chúng ta ngã chết hay được cất lên, mà Ngài đã giải cứu chúng ta ra khỏi quyền lực của nó rồi. Chúng ta đang ở TRONG thế gian nhưng không THUỘC VỀ thế gian. Cái nắm bắt duy nhứt Satan đang có trên người tin Chúa chính là những gì chúng ta dành cho hắn. Chúa Jêsus đã cầu thay cho chúng ta trong Giăng 17.15: "Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác".
Nếu quí vị nhận biết Chúa Jêsus, sự giải cứu ấy không còn là điều phải ao ước mà là điều đã xảy ra rồi. Tôi thích Côlôse 1.13, câu nầy chép như sau: "Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài". Không phải Ngài sẽ mà Ngài đã! Êphêsô 5.8 tương tự nói: "Vả, lúc trước anh em đang còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa". Hãy chú ý chúng ta đã ở trong sự tối tăm, nhưng bây giờ chúng ta đang ở trong chỗ sáng láng!
Vì chúng ta đã được "giải cứu ra khỏi đời ác nầy" chúng ta không còn là nô lệ cho nó nữa. Chúng ta không phải sống trong sự ích kỷ, tội lỗi, cay đắng, tham lam và kiêu ngạo nữa. Hêbơrơ 6.5 chép chúng ta đã "nếm đạo lành Đức Chúa Trời, và quyền phép của đời sau".
Sự giải cứu có ý nói chúng ta đã được thay đổi. Tôi là một "người mới" ở trong Đấng Christ! (II Côrinhtô 5.17). Vì cớ chúng ta đã được thay đổi, chúng ta không còn làm nô lệ cho thế gian. Vì lẽ đó chúng ta không còn lấy thế gian làm sự thoả mãn nữa. Với hai hàng nước mắt, Phaolô đã viết trong II Timôthê 4.10 về Đêma, là người đã "lìa bỏ ta rồi, tại người ham hố đời nầy…". Rôma 12.2 chép: "Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bước sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào".
Đức Chúa Trời không giải cứu chúng ta khỏi "đời ác" nầy, làm vậy không phải để cho chúng ta đẹp lòng mà là để làm đẹp lòng Ngài. Peter Marshall là một trong những nhà truyền đạo xuất sắc của thế kỷ vừa qua. Trong khi phục vụ trong vai trò Mục sư Tuyên úy cho Thượng Viện Mỹ, ông đã cầu nguyện: "Lạy Chúa Jêsus, Ngài là đường đi, lẽ thật và sự sống; xin lắng nghe chúng con khi chúng con cầu nguyện xin lẽ thật buông tha cho mọi người. Xin dạy chúng con biết sự tự do ấy không những được yêu thích mà còn phải sống với nó nữa. Sự tự do là một thứ rất quí giá không nên đem chôn giấu trong sách vỡ. Giá nó lớn đến nỗi không thể tích trữ được nữa. Xin giúp chúng con nhìn thấy sự tự do của chúng con không phải là điều thiện phải lo làm khi chúng con thích, mà là cơ hội muốn làm điều chi là đúng đắn".
Thứ tư, Chúa Jêsus giàu ơn phó chính mình Ngài theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Ngài phó chính mình Ngài "y theo ý muốn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta". Ở trong vườn Chúa Jêsus đã cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi!..." (Luca 22.42). Chính ý muốn của Đức Chúa Cha dành cho Chúa Jêsus phải gánh lấy trên chính mình Ngài mọi tội của chúng ta rồi chịu chết trong chỗ của chúng ta. Chúng ta đã được cứu bởi ý muốn của Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi có ít việc phải làm với ý muốn của tôi và là mọi sự phải làm với ý muốn của Đức Chúa Trời. Giăng 1.12 chép: "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài".
Thứ năm, Chúa Jêsus đã giàu ơn phó chính mình Ngài vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong khi nói tới Đức Chúa Cha, Phaolô thêm vào lời ngợi khen: "nguyền Ngài được vinh hiển đời đời vô cùng". Tin lành, sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus kết quả trong ân điển ban cho chúng ta và vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Đối với điều nầy Phaolô thêm chữ "amen" của ông vào hay "nguyện sự ấy được nên". Chúng ta có thể không thêm một từ ngữ nào vào công việc của Đấng Christ hơn là nói "amen" vào ân điển của Ngài và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nhờ Ngài chúng ta được buông tha vào lúc sau cùng.
Cho phép tôi kết thúc với một vài dòng rút từ một trong các bài ca thánh mà hạng người nô lệ sáng tác trong những ngày tăm tối nhất của xứ sở chúng ta. Đâu đó ở phương Nam, một nhóm nô lệ đã hát lên những lời lẽ đơn sơ nhưng rất vinh hiển nói về sự tư do, không những khỏi sự xiềng xích thuộc thể mà còn thực được buông tha nữa.
Ôi Chiên Con đã giáng trần để chịu chết ở đây,Chiên Con giáng trần để chịu chết ở đây,Ôi Chiên Con giáng trần để chịu chết ở đây,Tội nhân sẽ không còn chết nữa đâu!