Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

Galati 3.1-5: "Thiên về với luật pháp & Tấn tới về mặt thuộc linh"

Tự do thực – Galati
Thiên về với luật pháp & Tấn tới về mặt thuộc linh
Galati 3.1-5
David Letterman có danh sách ưu tiên Top Ten mỗi buổi tối. Một người bạn Mục sư mới đây đã gửi cho tôi quyển Bảy Dấu Hiệu Mục sư của bạn đang cần một kỳ nghỉ.
7. Lời nói đầu tiên ông dành cho hội chúng là "Được thôi, hãy nghe đây, hỡi những người theo tà giáo..."
6. Ông ngủ gà ngủ gật trong khi rao giảng.
5. Ông mặc short dự buổi thờ phượng Chúa nhựt .
4. Mỗi lần máy nhắn tin của ông hết pin, ông hô lên: "Sao họ không để cho tôi yên?"
3. Tuyên bố buổi thờ phượng có lễ báptêm sẽ tổ chức tại Thác Grand.
2. Quí vị đến tại văn phòng của ông để hỏi thăm rồi dốc đỗ tấm lòng ra với ông, khi ấy ông nói: "Nghe như một vấn đề riêng tư đem đến cho tôi vậy!?!"
VÀ DẤU SỐ 1 MỤC SƯ CỦA BẠN ĐANG CẦN MỘT KỲ NGHỈ. Trong sáu tuần lễ qua, ông đã rao giảng cùng một bài mỗi Chúa nhựt!
Chẳng có gì phải nghi ngại khi tôi sử dụng một kỳ nghỉ, nhưng chỉ khi nào tôi giảng cùng một bài trong sáu tuần vừa qua! Sở dĩ như vậy là vì trong phân đoạn nầy của sách Galati, Phaolô đã nhứt quyết rung lên một tiếng chuông. Ông đã gõ một tiếng trống. Ông đang có một lý thuyết bất biến, không thay đổi. Chúng ta đã được cứu bởi ân điển chớ không phải bởi việc làm. Chúng ta đã được xưng công bình, được hoà thuận lại với Đức Chúa Trời bởi tin chớ không phải bởi thành tựu.
Khi Phaolô thiết lập các Hội thánh trong xứ Galati, ông đã dạy cho họ biết về ân điển của Đức Chúa Trời, là sự ưu ái dành cho kẻ không xứng đáng, là tình yêu vô điều kiện dành cho họ. Ông dạy cho họ biết rằng: "Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết" (Rôma 5.8). Tuy nhiên, về sau có một số giáo sư giả người Do thái đã mời những người theo giáo Giu-đa vào trong các Hội thánh rồi dạy dỗ cho các con trẻ Cơ đốc nầy rằng họ cần phải thêm phép cắt bì và luật pháp Cựu Ước vào đức tin của họ nơi Chúa Jêsus. Sự dạy ấy được gọi là thiên về với luật pháp, cố gắng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ các quy tắc và điều lệ.
Đừng hiểu lầm nhé! Chúng ta cần các quy tắc. Không có các quy tắc, xã hội sẽ rơi vào chỗ hỗn loạn. Thậm chí chúng ta còn cần các quy tắc trong Hội thánh hoặc giả chúng ta sẽ giống như Israel, ở đó "ai nấy đều làm theo mắt mình cho là phải". Quy tắc của chúng ta trong Hội thánh nầy là phải vâng phục như có thể được đối với Kinh Thánh, là Lời thành văn của Đức Chúa Trời.
Thiên về với luật pháp không phải là tuân giữ các điều luật; thay vì thế, thiên về với luật pháp là một thái độ sai lầm về việc tuân giữ các quy tắc. Thiên về với luật pháp tôn cao bản ngã, xét đoán tha nhân mọi sự ở bề ngoài. Thiên về với luật pháp tôn cao các quy tắc hơn là sự khôn ngoan và sự phân biện.
Cho phép tôi đưa ra cho quí vị thấy một vài trường hợp dại dột của một số luật lệ trong xứ của chúng ta. "Những cô thiếu nữ không hề được phép đi dây căng ở Wheeler, Mississippi, trừ phi được phép làm chuyện ấy ở một nhà thờ. Tại Blackwater, Kentucky, dùng khăn cọ dưới cằm của một phụ nữ trong khi bà ta ngồi trong nhà thờ dự buổi thờ phượng sẽ lãnh án phạt 10$US và ở một ngày tù. Không ai ăn đậu phộng rang chưa lột vỏ khi đang ngồi trong nhà thờ ở Idanha, Oregon. Tại Honey Creek, Iowa, chẳng có người nào được phép mang súng cao su vào nhà thờ trừ viên cảnh sát. Không một cư dân nào ở Leecreek, Arkansas, được phép dự nhóm ở nhà thờ với bộ y phục màu đỏ. Nhảy múa yo-yo trong nhà thờ hay bất cứ đâu công cộng vào ngày sabát đều bị cấm ở Studley, Virginia. Sắc tộc Turtle không được phép có mặt trong vòng 150 mét ở một nhà thờ địa phương vào bất cứ lúc nào ở Slaughter, Louisiana".
Vị sứ đồ đã dạy dỗ chúng ta nhiều lần rằng chúng ta không thể làm hoà lại với Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ những luật lệ. Chúng ta không được cứu do sống nhơn đức vì chẳng một ai trong chúng ta là nhơn đức cả, chẳng một ai. Kinh Thánh phán rất rõ ràng: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình" (Êphêsô 2.8-9). Chúng ta không thể được cứu do thiên về với luật pháp.
Tôi nghĩ hầu hết những người thành Galati đều biết rõ họ được cứu là do ân điển chớ chẳng phải bởi thiên về với luật pháp. Tuy nhiên, dường như họ bị lay động bởi sự dạy giả dối cho rằng muốn giữ lấy sự cứu rỗi và lên tới một cấp độ mới với Đức Chúa Trời họ phải tuân giữ hết thảy các quy tắc và điều lệ. Họ không mua ƠN CỨU RỖI bởi thiên về với luật pháp, mà họ bị xiềng xích trong SỰ NÊN THÁNH do thiên về với luật pháp. Câu 3 là lẽ đạo của phân đoạn nầy: "Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?"
Nên thánh là một thuật ngữ của thần học, của Hội thánh với một ý nghĩa rất đơn giãn. Từ nầy có ý nói tới những gì Đức Chúa Trời hiện đang làm trong đời sống của quí vị sau khi được cứu. Từ giây phút quí vị được sanh lại, Đức Chúa Trời đã bắt tay hành động trong đời sống của quí vị, làm cho quí vị được tấn tới về mặt thuộc linh, biến đổi quí vị ra giống theo ảnh tượng của Đấng Christ. Nên thánh là tiến trình của sự trưởng thành thuộc linh.
Tôi e rằng nếu có ai trong quí vị tin mình có thể được cứu bởi việc làm hay bởi thiên về với luật pháp. Tuy nhiên, tôi ngại nhiều người trong chúng ta đang ra sức để được nên thánh hay đạt tới sự tấn tới thuộc linh bằng cách tuân giữ các quy tắc. Nên thánh bởi thiên về với luật pháp không giữ quí vị ở ngoài thiên đàng, nhưng chắc chắn nó sẽ cướp khỏi quí vị niềm vui mừng, bình an và ơn phước mà Đức Chúa Trời đã chất chứa dành cho quí vị.
Các tín hữu thường dễ bị làm mồi sa vào bẫy thiên về với luật pháp. Hôm nay chúng ta sẽ khởi sự bằng cách xác định 5 lý do tại sao có nhiều Cơ đốc nhân đang sinh sống trong chỗ thiên về với luật pháp, rồi từ đó chúng ta sẽ khám phá 5 lý do tại sao chúng ta không sống theo kiểu thiên về với luật pháp và sau cùng chúng ta sẽ tiếp thu làm thế nào để tránh thoát cái bẫy thiên về với luật pháp đó.
I. Tại sao Cơ đốc nhân sống theo kiểu thiên về với luật pháp.
A. LÝ DO #1. Họ có một quan điểm méo mó về Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời của Kinh Thánh là một Đức Chúa Trời giàu ơn và là Cha yêu dấu. Ngài vốn chậm giận, mau tha thứ và dư dật ơn thương xót dành cho con cái Ngài. Ngài thấu suốt mọi thất bại, lỡ lầm và tội lỗi của chúng ta, và chủ ý tiếp nhận chúng ta như thuộc riêng về Ngài. Ngài xem chúng ta giống như hạng nô lệ đã được tự do, là con nuôi, và là nhánh nho của Ngài. Bởi ân điển Ngài mặc cho chúng ta chiếc áo choàng công bình của Con Ngài và đã xử lý tội lỗi của chúng ta một lần đủ cả trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha. Ngài di dời mọi tội của chúng ta ra thật xa giống như phương đông xa cách phương tây, rồi chôn chúng trong những chỗ sâu thẳm của đại dương. Ngài chẳng còn nhớ đến chúng nữa. Đức Chúa Trời luôn luôn xử lý với chúng ta bằng ân điển.
Trong khi hầu hết chúng ta sẽ tuyệt đối nhất trí với mấy câu nói nầy, chúng ta có khuynh hướng áp dụng chúng vào SỰ CỨU RỖI chớ không áp dụng vào SỰ NÊN THÁNH. Chúng ta đồng ý rằng Đức Chúa Trời quan phòng chúng ta theo các phương thức nầy, nhưng về mặt thực tế chúng ta phải luôn làm việc để làm đẹp lòng Ngài. Đó là thiên về với luật pháp.
Một số người trong chúng ta xem Đức Chúa Trời giống như VIÊN CẢNH SÁT GIAO THÔNG vậy. Ngài luôn luôn quan phòng chúng ta với khẩu súng radar thánh khiết của Ngài. Bao lâu chúng ta vâng theo các quy tắc, Ngài càng ít chú ý tới chúng ta luôn. Tuy nhiên, hãy tìm cách vượt qua đèn vàng xem, hãy chạy từ 70 dặm/giờ so với 60 dặm/giờ được phép hoặc đậu xe trong một chỗ cấm, Ngài sẽ phạt vạ quí vị từng lúc như thế cho xem. Cơ đốc nhân với quan điểm như thế nầy về Đức Chúa Trời đang sống trong nỗi sợ hãi.
Các tín đồ khác xem Đức Chúa Trời là một NGƯỜI CHA RẤT BẠO NGƯỢC. Ngài luôn luôn quan phòng trên hai bờ vai của chúng ta, chăm chút từng góc cạnh đời sống của chúng ta. Ngài không tin chúng ta biết đưa ra những quyết định đúng đắn hoặc biết tập luyện sự phân biệt và khôn ngoan. Ngài có một quy tắc cho từng trạng huống.
Vẫn còn có nhiều người khác nữa xem Đức Chúa Trời là ĐẤNG GIỮ THÀNH TÍCH. Ngài đang ghi chép từng chút trên mọi sự. Ngày kia Ngài sẽ bày ra hết thảy mọi tội lỗi và sai sót của chúng ta trên một màn hình khỗng lồ cho mọi người đều xem thấy. Ngài giữ các bảng thành tích chi tiết ghi chép từng lỗi một, từng điều dại dột, từng sai lầm một.
Quan điểm như thế nầy về Đức Chúa Trời có thể được thấy rất rõ ràng trong các khúc hát của thiếu nhi: "Ôi hãy cẩn thận về điều đôi mắt nhỏ bé của em đang nhìn thấy, ôi hãy cẩn thận về những gì tai em nghe, ôi hãy cẩn thận về nơi mà bàn chân nhỏ của em đi qua, vì Cha trên trời cao kia đang nhìn xuống với lòng yêu thương, ôi hãy cẩn thận…" Tôi nghi có nhiều em thiếu nhi đã học biết về tình yêu thương của Đức Chúa Trời qua bài hát ngắn nầy, nhưng chúng chắc đã học biết rằng Ngài là một Đấng chuyên giữ thành tích.
Nếu chúng ta làm méo mó quan điểm của Kinh Thánh về Đức Chúa Trời thành quan điểm của một cảnh sát giao thông, của người cha bạo lực hay Đấng chuyên giữ thành tích, thì chẳng có gì là lạ cả, chúng ta đang sống trong nỗi sợ của sự thiên về với luật pháp đến nỗi chúng ta sẽ vi phạm một trong các quy tắc của Ngài rồi đưa thân mình vào sự phán xét. Tuy nhiên, đây là quan điểm không đúng đắn về Đức Chúa Trời.
B. LÝ DO #2. Họ xem ân điển là một thứ áng ngữ đối với sự vâng phục.
Quí vị có bao giờ sử dụng một vật áng ngữ chưa? Một số tín hữu xem ân điển của Đức Chúa Trời chẳng là gì hết, trừ ra một công cụ Đức Chúa Trời sử dụng để áng ngữ không cho họ bước vào sự vâng phục. Họ xem ân điển không phải là một yếu tố không đổi của Đức Chúa Trời mà là một công cụ Ngài sử dụng để nắn đúc chúng ta.
Họ xem Đức Chúa Trời như đang phán: "Hãy nhìn xem mọi sự ta đã làm cho ngươi. Ta đã cứu ngươi. Ta đã tha thứ cho ngươi. Ta đã chịu chết trên thập tự giá vì nhiều tội lỗi của ngươi. Ngươi làm điều chi cho ta? Ngươi là kẻ vô ơn. Há ngươi có biết ơn sao? Ngươi phải biết xấu hổ chứ? Bây giờ hãy đứng dậy mà nhìn biết điều đó!" Mặc dù suy nghĩ tới Đức Chúa Trời theo cách nầy sẽ tác động chúng ta làm theo điều chi là đúng đắn, nó di dời ân điển thật ra khỏi đời sống của chúng ta và làm cho chúng ta co cụm lại thành hạng người tuân giữ quy tắc thiên về với luật pháp.
C. LÝ DO #3. Họ tin Đức Chúa Trời tiếp nhận chúng ta trên cơ sở thành tích.
Có nhiều người được bố mẹ nuôi dạy, họ lập trình cho con cái họ tin rằng sự tiếp nhận dựa trên thành tích, thậm chí trên sự trọn vẹn nữa. Họ được sắp đặt cho phải tin rằng nếu họ đạt được các cấp độ tốt, một mức trung bình khả thi hay ngồi ghế thứ nhứt trong đội, thì bố mẹ sẽ tiếp nhận và yêu thương chúng. Giá trị cái tôi của chúng được ràng buộc với thành tích của chúng.
Không may thay, họ lại nhìn xem Đức Chúa Trời theo cùng một cách đó. Họ phấn đấu để làm tốt nhiều việc không nhắm vào việc đẹp lòng Đức Chúa Trời mà là lo sợ rằng nếu họ không làm được thì Đức Chúa Trời sẽ không tiếp nhận họ. Họ luôn luôn cảm thấy Đức Chúa Trời không đẹp lòng với sự họ thiếu trọn vẹn, vì vậy họ cứ làm nhiều thêm nữa. Đó là trọng tâm của sự thiên về với luật pháp.
D. LÝ DO #4. Họ đã có hình thức thiên về với luật pháp lập nền sẵn trong họ.
Tôi lớn lên trong một Hội thánh chắc chắn là thiên về với luật pháp. Tôi được dạy dỗ rằng được cứu là bởi ân điển, nhưng không lâu sau đó một người khi được cứu họ phải bắt tay vào làm việc cho Đức Chúa Trời. Thực vậy, người ta dạy tôi rằng được cứu bởi ân điển, còn nên thánh (sự trưởng thành thuộc linh) là bởi việc làm.
Tôi là một người lớn trước khi tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời tiếp nhận tôi bằng khoảng thời gian ân điển. Sự cứu rỗi, sự nên thánh, sự vinh hiển… hết thảy đều bởi ân điển chớ không phải bởi việc làm. Tôi đã bước vào chức vụ trọn thời gian trước khi tôi đạt tới mức hiểu biết Đức Chúa Trời yêu thương tôi và tiếp nhận tôi một cách trọn vẹn. Ngài không hề yêu thương tôi nhiều hơn và chẳng hề yêu thương tôi ít hơn. Chẳng việc gì tôi làm hay không làm sẽ làm thay đổi mối giao thông của chúng tôi vì mối giao thông ấy hoàn toàn dựa trên ân điển của Ngài chớ không dựa vào thành tích của tôi.
Tôi phải sống thành thực. Thiên về với luật pháp lập nền trong tôi đến nỗi tôi vẫn phấn đấu để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trong khi về lý trí tôi biết Ngài đã đẹp lòng rồi với tôi, vì tôi đã khoác chiếc áo công bình của Con Ngài.
E. LÝ DO #5. Thiên về với luật pháp dường như thuộc linh lắm.
Cơ đốc nhân thiên về với luật pháp dường như sống như thế cả. Họ sống kỹ luật và không thoả hiệp. Họ bền đỗ nhóm lại tại nhà thờ, đem Kinh Thánh theo khi đi làm hay đi học. Họ không hút thuốc, uống rượu, chửi thề và không làm hàng tỉ điều khác. Thắc mắc là: tại sao họ không làm những việc nầy? Động lực nằm ở hàng tận cùng.
Có phải quí vị tránh né những cách xử sự nhất định nào đó vì sợ người ta nói hay vì tình cảm quí vị dành cho Đức Chúa Trời? Một số Cơ đốc nhân có thể không hút thuốc hay uống rượu nhưng họ có thèm muốn và tham lam ở trong lòng không? Tội lỗi nào là tệ hại nhất? Người thiên về với luật pháp có thể trông giống như Ông Trưởng Thành ở bề ngoài, song ở bề trong người có thể sống xa cách Đức Chúa Trời lắm. Thiên về với luật pháp là hình thức dối gạt vì người ta sử dụng nó để ngụy trang thực sự họ là ai.
Có thể một hay nhiều hơn các trường hợp nầy rất thích ứng với quí vị. Tôi dám chắc phần nhiều người trong chúng ta vẫn còn đang phấn đấu với các vấn đề nầy khi chúng ta xem nhẹ ân điển của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy tra xét phân đoạn Kinh Thánh và nhìn xem lý do tại sao thiên về với luật pháp là một cuộc phấn đấu vô mục đích, hư không.
II. Tại sao Cơ đốc nhân không sống theo kiểu thiên về với luật pháp.
A. LÝ DO #1. Sống theo kiểu thiên về với luật pháp là lối sống dại dột (câu 1a).
Phaolô bắt đầu tiểu đoạn nầy bằng cách gào lên: "Hỡi người Galati ngu muội kia". "Ngu muội" ra từ một chữ có nghĩa là "không làm chủ được lý trí". J.B. Phillips lấy theo định nghĩa nầy trong bản dịch của ông: "Hỡi người Galati dại dột kia… chắc chắn anh em không thể dại dột như thế được". Từ Hy lạp không nói tới người nào đó thực sự là khờ dại, ngốc nghếch, mà nói tới những kẻ bất chấp lẽ thật. Chúng ta thường dùng từ “dại dột” (idiot) không nói tới kẻ không có khả năng tiếp thu, mà rõ ràng nói tới kẻ không phải là dại dột mà có hành vi giống như kẻ dại dột vậy.
Tại sao Phaolô nói họ đang hành động giống như hạng dại dột chứ? Vì có những kẻ khác “đã bỏ bùa ếm” họ. Họ đã để cho các giáo sư giả "bùa ếm" họ. Các Cơ đốc nhân Hy lạp xuất thân từ một lai lịch tà giáo thuộc linh. Họ quá quen thuộc với các thuật sĩ, họ có thể bỏ bùa mê trên ai đó. Họ đang hành động giống như các thây ma sống lại nhờ vào bùa phép, không có lý trí, những người máy thuộc linh với các kẻ theo giáo Giu-đa đang nắm lấy quyền điều động. Phaolô nói cho họ biết họ đã để cho các giáo sư giả bùa ếm họ, vì vậy giờ đây họ đang chối bỏ mọi điều họ biết rất thực về ân điển của Đức Chúa Trời.
Khi một Cơ đốc nhân tin cậy vào các việc lành thiên về với luật pháp của bản thân mình để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời thay vì tin cậy vào ân điển của Đức Chúa Trời, người ấy đang đóng vai kẻ dại và đang hành động, nói theo từ ngữ của Phaolô, giống như một kẻ dại dột vậy.
B. LÝ DO #2. Sống theo kiểu thiên về với luật pháp là bất chấp thập tự giá (câu 1b).
Phaolô nói họ "không vâng theo lẽ thật" và đã nhắc cho họ nhớ trước khi họ trở thành những người máy như thế họ đã được rõ bày ra: "Đức Chúa Jêsus Christ đã bị đóng đinh trên thập tự giá".
"Rõ bày ra" ra từ chữ prographo, một từ ngữ thường mô tả việc dán các bản yết thị quan trọng ở nơi công cộng. Phaolô đang nói: "Tôi đã nói cho anh em từng chi tiết về sự Chúa Jêsus chịu chết một cái chết rất đau thương trên thập tự giá để trả giá cho tội lỗi của anh em. Giống như tôi đã dán điều đó lên mấy tấm bảng quảng cáo lớn trên các thành phố của anh em vậy". Sự đóng đinh trên thập tự giá là sứ điệp chính của Phaolô. Ông đã nói trong I Côrinhtô: "Vì tôi đã định chẳng biết một việc gì khác ngoài việc Đức Chúa Jêsus Christ và Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự giá". Nói cách khác, quí vị không phải sống nhơn đức hầu trang điểm cho tội lỗi của quí vị được, Chúa Jêsus đã trả giá cho chúng rồi, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Quí vị chỉ tin mà thôi. Hãy nhớ 2.21: "vì nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Đấng Christ chịu chết là vô ích".
Stott đã viết: "Sức mạnh của thì hoàn thành trong cấu trúc văn phạm của câu nói, ấy là công tác của Đấng Christ đã được hoàn tất trên thập tự giá, và mọi tiện ích của sự Ngài chịu đóng đinh trên thập tự giá mãi mãi tươi mới, có hiệu lực và đang sẵn có. Hạng tội nhân sẽ được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời và bởi Đức Chúa Trời, không phải vì bất cứ việc làm nào của riêng họ, mà vì công tác cứu chuộc của Đấng Christ; không phải vì điều chi họ đã làm hay có thể làm, mà vì mọi điều Đấng Christ đã làm một lần đủ cả, khi Ngài chịu chết. Tin lành không phải là một lời khuyên tốt cho con người đâu, mà là những tin tức tốt lành nói tới Đấng Christ; không phải một lời mời gọi dành cho chúng ta làm theo một điều gì đó, mà là một lời công bố ra mọi điều mà Đức Chúa Trời đã làm; không phải một đòi hỏi, mà là một sự cung hiến".
C. LÝ DO #3. Sống theo kiểu thiên về với luật pháp là đi ngược lại với Đức Thánh Linh (các câu 2-3).
Vị sứ đồ nói: "Tôi muốn học biết từ anh em chỉ có điều nầy" hay "Tôi chỉ có một câu hỏi". Ông nói: "Ấy là cậy các việc luật pháp hay là bởi nghe và tin mà anh em đã nhận được Đức Thánh Linh?"
Khi một người được cứu, được sanh lại, họ kinh nghiệm sự Đức Thánh Linh ngự vào lòng. Nếu quí vị chưa "nhận lãnh Đức Thánh Linh" thì quí vị chưa được cứu đâu. Rôma 8.9 chép: "song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài".
Phaolô biết rõ họ đã được cứu. Ông nhắc tới trong câu 5 thể nào Đức Thánh Linh đã làm ra "nhiều phép lạ" giữa vòng họ. Thắc mắc của ông là Họ đã nhận lãnh Đức Thánh Linh nhờ ân điển của Đức Chúa Trời hay họ kiếm được sự hiện diện của Ngài do các việc làm của họ? Tất nhiên câu trả lời là bởi ân điển, bởi "nghe và tin".
Trong câu 3, ông đi từ sự cứu rỗi sang sự nên thánh. Ông hỏi: "Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?" Nói cách khác: "Nếu anh em không thể được cứu bởi các việc lành và không nhận lãnh Đức Thánh Linh bởi các việc lành, sao bây giờ anh em có thể tin rằng anh em sẽ được nên trọn vẹn hay được trưởng thành bằng cách nương vào khả năng riêng để sống nhơn đức chứ?" Chúng ta không đạt tới sự trưởng thành thuộc linh bằng cách tuân giữ các bảng danh sách những điều làm hay không làm theo. Chúng ta kiếm được sự trưởng thành thuộc linh bằng cách đầu phục theo Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Đó là ân điển! Galati 5.16 chép: "Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt".
Thí dụ, tôi biết tôi cần đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Có khi tôi đọc Kinh Thánh cách vội vàng, mau mau để còn lo làm việc khác. Khi nào tôi có thái độ ấy, tôi là một kẻ thiên về với luật pháp. Đức Chúa Trời chẳng có ấn tượng gì hết. Tôi chẳng tiếp thu được gì hết. Tôi chỉ mất thì giờ mà thôi. Tuy nhiên, khi tôi nói: "Đức Thánh Linh mở mắt tôi nhìn biết lẽ thật, xin dạy dỗ tôi", khi tôi đọc thật cẩn thận, tôi luôn luôn tìm kiếm cốt lõi của chân lý để tôi có thể áp dụng vào đời sống tôi. Đấy là sự khác biệt giữa thiên về với luật pháp và bước đi theo Thánh Linh.
D. LÝ DO #4. Sống theo kiểu thiên về với luật pháp tạo ra sự bắt bớ vô mục đích (câu 4).
Phaolô nói trong câu 4: "Anh em há luống công mà chịu sự khốn khó dường ấy sao? nếu quả là luống công!" Các Cơ đốc nhân đầu tiên nầy đã chịu khốn khó vì cớ đức tin của họ. Họ đã bị bắt bớ đủ mọi phương diện. Tuy nhiên, sự bắt bớ tệ hại nhất đã đến từ những người Do thái, họ đã xem Cơ đốc giáo là một mối đe doạ đối với tôn giáo cổ xưa của họ. Phaolô đang nói rằng nếu họ bây giờ tìm cách sống giống như người Do thái (phép cắt bì, luật pháp, các nghi thức) thì đâu là mục tiêu cho việc hứng chịu sự bắt bớ, đúng là "luống công".
Có bao giờ quí vị bị bắt bớ vì là một Cơ đốc nhân chưa? Có phải ở trường học hay ở sở làm người ta đã chế giễu quí vị vì cớ đức tin của quí vị chưa? Nếu quí vị đang sống theo kiểu thiên về với luật pháp thì quí vị chưa tấn tới về mặt thuộc linh và mọi điều quí vị chịu khốn khó từ nơi họ quả là "luống công" rồi.
E. LÝ DO #5. Sống theo kiểu thiên về với luật pháp dập tắt Sự tấn tới về mặt thuộc linh (câu 5).
Trong câu 5, Phaolô chỉ ra hai ơn phước đến từ nơi Chúa. Đức Chúa Trời "ban Đức Thánh Linh cho anh em và làm các phép lạ trong anh em".
Câu 2 nói họ "[đã] nhận được Đức Thánh Linh" thì quá khứ. Câu 5 nói Đức Chúa Trời "ban Đức Thánh Linh [mặc lấy, phục vụ] Đức Thánh Linh cho anh em", thì hiện tại. Phaolô đã đi từ chỗ nói về sự Đức Thánh Linh ngự vào lòng một lần đủ cả, đến chỗ sự phục vụ của Đức Thánh Linh hết ngày nầy sang ngày khác trong đời sống của chúng ta.
Nếu quí vị là một người tin Chúa chân chính, quí vị đang ý thức công việc của Đức Thánh Linh, Ngài hướng dẫn, dạy dỗ, yên ủi quí vị, v.v….Có nhiều lần trong đời sống chúng ta Đức Thánh Linh vận hành bằng quyền phép vô đối. Ngài phán dạy với lòng chúng ta. Ngài khiến chúng ta làm theo một số việc mà chúng ta không thể làm bằng sức riêng của mình. Phaolô muốn biết, có phải Đức Thánh Linh đang vận hành trong đời sống của quí vị vì quí vị đang thực thi "công việc của luật pháp" hay bởi "nghe và tin?"
Đức Chúa Trời cũng "làm ra nhiều phép lạ". Có người cho rằng chẳng có phép lạ chi hết hôm nay. Tôi không nhất trí về điều đó. Chúng ta không có dấu kỳ phép lạ hôm nay, nhưng tôi tin đây là một sự sĩ nhục Đức Chúa Trời khi nói Ngài không làm ra các phép lạ. Phép lạ lớn lao nhứt từng diễn ra, ấy là khi có ai đó được cứu, một tội nhân trở thành một thánh nhân.
Tôi nghĩ tới những thời điểm trong Hội thánh chúng tôi khi có người đau bịnh. Chúng tôi đã cầu thay cho họ, cầu xin Đức Chúa Trời thực thi ý chỉ của Ngài trong đời sống của họ. Chúng ta đã cầu xin Chúa chữa lành bằng phép lạ. Có người không được chữa lành. Có người được chữa lành. Phải chăng họ được chữa lành vì đã tin hay thành tựu?
Một số người trong quí vị đã nhìn thấy Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện theo một cách thức đáng kinh ngạc. Quí vị nhìn thấy Đức Chúa Trời làm thay đổi mọi sự. Phải chăng điều nầy xảy ra bởi ân điển hay vì quí vị tuân giữ một bảng danh sách những việc cần làm theo và không làm theo?
Khi chúng ta "bước đi bởi Thánh Linh" chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời khi Ngài vận hành cách mạnh mẽ trong đời sống của chúng ta. Khi chúng ta ăn ở theo kiểu thiên về với luật pháp, chúng ta nhìn thấy mọi ơn phước của Đức Chúa Trời như một kết quả của sự chúng ta trung tín và tai hoạ như một kết quả của sự chúng ta bất trung. Khi thiên về với luật pháp, mọi sự đều nương vào tôi hết. Khi bước đi theo Thánh Linh, mọi sự đều nương vào Đức Chúa Trời.
III. Làm sao Cơ đốc nhân thắng hơn sự thiên về với luật pháp.
A. Chúng ta cần một hình ảnh đúng đắn về Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời giàu ơn. Ân điển của Ngài đối cùng chúng ta không những ở sự cứu rỗi trong quá khứ hay sự vinh hiển trong tương lai, mà còn ngay bây giờ ở sự nên thánh trong hiện tại. Ngài luôn luôn xử lý với con cái Ngài bằng ân điển. Cơn thạnh nộ của Ngài đã được dành riêng cho những ai từ chối Con của Ngài. Ngài tiếp nhận chúng ta khi chúng ta làm điều chi phải lẽ và khi chúng ta phạm điều chi sai lầm. Ngài không ném ân điển của Ngài vào mặt chúng ta hay tìm cách làm xấu hổ chúng ta khi chúng ta không vâng lời. Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta cách tuyệt đối.
Tôi không nói rằng Đức Chúa Trời đang dung chịu tội lỗi đâu. Ngài thù ghét tội lỗi nơi kẻ không tin Chúa và nơi người tin Chúa. Tôi thích cách Elisa Morgan thổ lộ điều đó: "Đức Chúa Trời, là Đấng nhìn thấy chúng ta trong những giờ phút tệ hại nhất, nhưng không dùng chúng mà tính toán với chúng ta". Ân điển của Ngài là đủ cho tội lỗi chúng ta. Trong khi Ngài thù ghét tội lỗi trong đời sống chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta.
B. Chúng ta cần một sự hiểu biết chính xác về ân điển.
Tôi dám chắc rằng chẳng có một từ ngữ nào đẹp đẽ trong bất kỳ một thứ ngôn ngữ nào hơn là từ "ân điển". Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta và chúc phước cho chúng ta cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu hay ơn phước của Ngài. Ngài lựa chọn chúng ta từ trước khi sáng thế. Ngài kêu gọi chúng ta đến với chính mình Ngài. Ngài xưng công bình chúng ta, tuyên bố chúng ta là ngay thẳng. Ngài đang bắt tay làm nên thánh chúng ta, khiến cho chúng ta được thánh khiết. Ngài sẽ làm cho chúng ta được vinh hiển không bao lâu nữa, một ngày gần đây. Mọi sự đều quy về cho ân điển. Chúng ta không kiếm được một tí gì về ân điển đó.
Kẻ thiên về với luật pháp làm theo bảng danh sách những việc làm theo và không làm theo hầu được Đức Chúa Trời tiếp nhận và tránh được sự phán xét của Ngài. Người tín đồ thuộc linh nào hiểu rõ ân điển làm hay không làm vì người yêu mến Đấng Christ và có lòng quan tâm muốn làm chứng cho Ngài. Người hiểu rõ thậm chí khi người vấp ngã, Đức Chúa Trời luôn luôn đặt người vào trong cái tổ của ân điển.
Tuần lễ nầy, Chúa chỉ cho tôi thấy một phân đoạn Kinh Thánh bày tỏ ra chính lẽ thật nầy. I Têsalônica 5.23-24 chép: "Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn, và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta đến! Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó". Tôi không tự mình làm nên thánh được, Cha thành tín của tôi ở trên trời sẽ làm việc ấy!
Một chiếc tàu bị đắm, và kẻ sống sót duy nhứt bơi đến một hòn đảo nhỏ không có ai ở. Ông ta bị kiệt sức. Ông ta cầu xin Đức Chúa Trời cứu ông ta. Mỗi ngày ông ta nhìn chăm chú vào đường chân trời, tìm kiếm sự cứu giúp. Sau cùng, ông ta dựng lên một túp lều rồi đặt một số đồ vật nhỏ vào đấy. Ngày kia, sau khi đi săn tìm thức ăn rồi trở về nhà, ông ta lấy làm đau đớn khi nhìn thấy túp lều nhỏ đang bốc cháy và một cột khói bốc cao lên. Chuyện tệ hại nhất đã xảy ra. Nhưng qua sáng sớm ngày hôm sau, một nhóm thủy thủ đến và giải cứu ông ta. Ông ta hỏi nhóm thủy thủ đó: "Làm sao các anh biết tôi ở tại hòn đảo đó chứ?" Họ đáp: "Chúng tôi đã nhìn thấy cột khói dấu hiệu". Chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời đốt bỏ các túp lều thiên về với luật pháp của chúng ta hầu cho chúng ta được giải cứu bởi ân điển của Ngài.

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Galati 2.15-21: "Thực chất của sự xưng công bình"


Tự do thực – Galati
Thực chất của sự xưng công bình

Galati 2.15-21
Katie 3 tuổi bị đưa đến Bác sĩ Nhi khoa trong đợt cúm mới đây. Khi bác sĩ xem xét hai lỗ tai của nó, ông hỏi: "Thế nào Bác sĩ cũng tìm được Con Chim Lớn ở đây cho xem?" Thật bức rức, Katie bèn đáp: "Không có đâu". Thế rồi, trước khi xem xét cổ họng của nó, ông hỏi: "Thế nào Bác sĩ cũng tìm thấy con quái vật Cookie ở đây cho xem?" Một lần nữa, "Không có đâu". Sau cùng, sau khi nghe tim của nó, ông hỏi: "Tôi sẽ tìm thấy Barney ở đây cho xem?" Với sự tin quyết mình không có gì hết, nó nhìn thẳng vào mắt ông rồi nói: "Không, Chúa Jêsus đang ngự trong trái tim của con. Barney đang ở trên quần lót của con". Tôi không muốn biết cái gì đang có trên đồ lót của quí vị, nhưng tôi hy vọng rằng Chúa Jêsus đang ngự trong trái tim của quí vị!
Khi có Chúa Jêsus ngự trong tấm lòng của quí vị, sau khi làm hoà lại với Đức Chúa Trời, mới là vấn đề quan trọng nhất trong cuộc sống. Kinh Thánh gọi điều nầy là XƯNG CÔNG BÌNH. Chúng ta dành một phút để xử lý về thần học. Sự thực cho thấy là nếu tôi làm hoà lại với Đức Chúa Trời, tôi có thể sống phải lẽ với vợ con của tôi. Nếu tôi làm hoà lại với Đức Chúa Trời, tôi có thể sống hài hoà với người ta trong sở làm và trong Hội thánh của tôi. Nếu tôi làm hoà lại với Đức Chúa Trời, tôi có thể sống hiệp nghi với tài chính và của cải của tôi. Tôi làm hoà lại với Đức Chúa Trời, tôi có thể vận dụng bất cứ thứ gì mà cuộc sống trao cho tôi.
Làm hoà lại với Đức Chúa Trời rồi, điều nầy dẫn tới việc có mối giao thông phải lẽ với Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ. Sách Galati nói tới SỰ XƯNG CÔNG BÌNH, là con đường đúng đắn để làm hoà lại với Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phaolô đã giúp thiết lập ít nhất bốn Hội thánh trong khu vực Galati. Sau khi ông lìa khỏi họ, các giáo sư giả luồn lách vào trong rồi khởi sự vặn cong, bóp méo Tin lành. Họ dạy rằng muốn hoà thuận lại với Đức Chúa Trời, không những quí vị phải đặt lòng tin cậy nơi Đấng Christ, mà quí vị còn phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật pháp Cựu Ước nữa.
Phaolô đã giải thích rồi, thể nào ông đã đem Tít, một Cơ đốc nhân không chịu phép cắt bì lên thành Jerusalem và bàn bạc với các sứ đồ khác và từ nơi họ Tít "không bị ép phải chịu cắt bì" (câu 3). Nói cách khác, hết thảy các sứ đồ đều đồng ý rằng phép cắt bì không cần thiết để được cứu rỗi.
Tuần qua chúng ta học biết rằng Phierơ đã "đến tại An-ti-ốt", Phaolô và Banaba đã giảng đạo tại đó. Lúc đầu ông còn ngồi "ăn với người Ngoại", nghĩa là ông không theo luật lệ ăn uống của người Do thái trong Cựu Ước. Tuy nhiên, khi có "những người do Giacơ sai đến", là các Cơ đốc nhân người Do thái, Phierơ đã đạo đức giả "lui" khỏi các tín đồ dân Ngoại và thực thi lại các luật ăn uống theo Cựu Ước.
Phaolô lấy làm lạ nơi Phierơ. Ông nói trong câu 11: "Tôi có ngăn can trước mặt người, vì là đáng trách lắm". Tại sao Phaolô lại ngăn can như thế chứ? Vì sự giả hình của Phierơ đã khiến cho các Cơ đốc nhân dân Ngoại nghĩ rằng muốn làm hoà lại với Đức Chúa Trời, họ cần có một đôi điều nữa khác hơn là chỉ có đức tin nơi Chúa Jêsus. Phierơ đã khiến cho họ nghĩ rằng họ cần phải thêm việc tuân giữ luật pháp vào đức tin của họ thì mới được cứu rỗi.
Phaolô đã không gặp Phierơ theo cách riêng. Khi ông nhìn thấy Phierơ không đi "ngay thẳng theo lẽ thật của Tin lành", ông nói với Phierơ "trước mặt mọi người" (câu 14). Ông đã đứng chân đối chân, mắt đối mắt với Phierơ mà ngăn can ông ấy!
Tuần qua chúng ta đã thấy điểm sai lầm mà Phierơ đã phạm phải. Tuần lễ nầy chúng ta sẽ học biết lý do tại sao Phierơ lại sai lầm như vậy. Trong khi Phierơ tin Tin lành theo nguyên tắc, ông đã vi phạm về cách thực hành. Phaolô nói với Phierơ và về sau viết thư cho người thành Galati rằng chúng ta được XƯNG CÔNG BÌNH bởi đức tin nơi Chúa Jêsus, chớ không phải bởi tuân giữ luật pháp.
I. NHU CẦN quan trọng nhất của chúng ta là làm hoà lại với Đức Chúa Trời (các câu 15-16).
A. Hết thảy chúng ta đều là tội nhân.
Có hai sự kiện cơ bản mà chúng ta cần phải hiểu rõ. Thứ nhứt, Đức Chúa Trời là công bình hay thánh khiết. Thứ hai, chúng ta không công bình hay thánh khiết. Nếu Đức Chúa Trời là công bình và chúng ta không công bình, thế thì chúng ta chưa làm hoà lại với Đức Chúa Trời, ngược lại có điều chi đó sai trật giữa chúng ta. Kinh Thánh hỏi: "Bởi vì công bình với gian ác có hòa hiệp nhau được chăng?" (II Côrinhtô 6.14). Gióp 25.4 hỏi: "Làm sao loài người được công bình trước mặt Đức chúa Trời? Kẻ nào bị người nữ sanh ra, sao cho là trong sạch được?"
Phaolô nói với Phierơ trong câu 15: "Về phần chúng tôi, thì sanh ra là người Giu-đa” không phải là “kẻ có tội” như dân ngoại. Ông không có ý nói rằng người Do thái không phạm tội. Ông có ý nói họ biết rõ và giữ luật nghi thức của Cựu Ước và người Ngoại không giữ như vậy. Trong câu 17 ông nói: "Chính chúng tôi bị nhận là kẻ có tội".
Nói cách khác, chỉ vì người Do thái đã giữ luật ăn uống và chỉ ăn các thứ thức ăn chính đáng không có nghĩa là họ không phải là tội nhân. Việc tuân giữ các luật lệ kia không khiến họ làm hoà lại với Đức Chúa Trời.
Trong Êphêsô 2.1-3, ở đây mô tả tình trạng tự nhiên của mọi người, cả người Do thái và người dân Ngoại. Phaolô viết: "Còn anh em [dân Ngoại] đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch.…" Giờ đây hãy chú ý câu 3: "…Chúng ta [người Do thái] hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác [giống như anh em là dân Ngoại]".
Rôma 3.10 chép: "Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không". Dù quí vị là người Do thái chính thống lo tuân giữ luật pháp, hay là người dân Ngoại kia chẳng có hy vọng gì, không một ai trong chúng ta làm hoà lại với Đức Chúa Trời hết. Thực vậy, Rôma 3.23 chép: "Vì MỌI NGƯỜI đều đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời". "Mọi người" có nghĩa là hết thảy! Người Do thái, người dân Ngoại, người nam, người nữ, con trai, con gái, Báptít, Trưởng Lão, Công giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo v.v…MỌI NGƯỜI, những ai sống hay từng sống đều là tội nhân và chưa làm hoà lại với Đức Chúa Trời. Đây là lẽ thật khi Phaolô viết bức thư nầy gần 2000 năm qua và cũng rất thật cho hôm nay. Lẽ thật ấy rất thực về quí vị và tôi!
B. Hết thảy chúng ta cần được xưng công bình.
Hãy nhìn vào câu 16. Quí vị thấy có một cụm từ được lặp đi lặp lại ba lần trong câu nầy không? Cụm từ đó là gì vậy? Cụm từ đó là "được xưng công bình". Tôi biết cụm từ nầy là cụm từ nghe rất chuyên môn, nặng về thần học, và là thuật ngữ trong Hội thánh và quả nhiên là như vậy. Tuy nhiên, đây là một cụm từ quan trọng nhất mà chúng ta đã từng biết và quả đúng là một cụm từ mà chúng ta cần phải tìm hiểu.
"Được xưng công bình" là một cụm từ theo luật pháp được mượn từ toà án. Cụm từ nầy ngược lại với "bị xét đoán". Bị xét đoán là bị tuyên bố phạm tội. Còn “được xưng công bình” là được tuyên bố không phạm tội. Kinh Thánh sử dụng cụm từ nầy để mô tả những gì Đức Chúa Trời đã làm để khiến cho mọi sự ra phải lẽ giữa Ngài và chúng ta. "Được xưng công bình" trước mặt Đức Chúa Trời có nghĩa là Đức Chúa Trời không những đã tha thứ hay tuyên bố chúng ta trắng án, mà Ngài còn tiếp nhận chúng ta là công bình giống như Ngài là công bình vậy. Billy Graham mô tả rất đơn giản như sau: "Được xưng công bình có nghĩa là ngay thẳng giống như thể tôi chưa hề phạm tội vậy".
C. Chúng ta không thể được xưng công bình bởi luật pháp.
Phaolô nói trong câu 16 rằng cả ông và Phierơ đều đang hay đã "biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu". Ông nói thêm ở cuối câu rằng: "vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp”. Nói cách khác, nếu quí vị nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận quí vị vì quí vị đọc kinh Cựu Ước và cố gắng giữ các luật lệ đó, quí vị đã sai rồi.
Có một số người đã tìm cách sống theo Cựu Ước. Tuy nhiên, có nhiều người nghĩ rằng Đức Chúa Trời tiếp nhận họ vì họ là “hạng người nhơn đức”. Ngay chính tuần lễ nầy, tôi đã đọc một trích luận từ nghệ sĩ nổi tiếng Sophia Loren: "Tôi không phải là một người chuyên nghiệp", bà nói, bà không phải là thuộc viên của tôn giáo có tổ chức: "nhưng tôi cầu nguyện. Tôi đọc Kinh Thánh. Đây là quyển sách hay nhất đã từng được viết ra. Tôi sẽ lên thiên đàng; còn nếu không thì chẳng hay ho gì hết. Tôi chẳng làm gì sai quấy. Lương tâm tôi trong sáng. Linh hồn tôi trắng như hoa phong lan treo ở đàng kia kìa, và tôi sẽ trực chỉ, trực chỉ đến thiên đàng".
Nói cách khác, bà ta nghĩ Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận bà ta vì bà ta về mặt cơ bản là một người nhơn đức. Bà ta nói đã đọc Kinh Thánh, nhưng bà ta chưa đọc Galati 2 nếu bà ta tin mình không làm điều chi sai quấy. Bà ta, một là thiếu hiểu biết, hoặc bất chấp sự thực Đức Chúa Trời phán nhiều lần trong Kinh Thánh rằng bà ta, giống như mọi người khác, đều là tội nhân và bà ta chưa tốt đủ hay trong sạch đủ để đẹp lòng Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta tìm cách đến với Đức Chúa Trời bằng sự nhơn đức riêng của mình thì chúng ta sẽ bị XÉT ĐOÁN chớ không “được xưng công bình” đâu!
John Stott viết về một người đang tìm cách tự xưng công bình: "Đây là tôn giáo của con người bình thường cả trước đây và từ giờ trở đi. Đây là tôn giáo của người sống trên đường phố hôm nay. Thực thế, đây là nguyên tắc cơ bản của từng tôn giáo và hệ thống đạo đức trong thế gian trừ ra Cơ đốc giáo theo Tân Ước. Nó phổ thông vì nó đang gây ra hy vọng hão. Nó nói với một người rằng nếu người ấy kéo đôi vớ cao lên hơn một chút, người ấy sẽ thành công trong việc có được sự cứu rỗi cho chính bản thân mình. Nhưng đấy là một sự lừa bịp đáng phỉ nhổ. Đó là lời dối trá to lớn nhất của kẻ chuyên nói dối chuyên nghiệp nhất mà thế gian từng nhìn biết, là ma quỉ, là kẻ mà Chúa Jêsus gọi là ‘cha của những kẻ nói dối’. Chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp bao giờ, vì lý do đơn giản, ấy là chẳng có ai giữ trọn được luật pháp cả".
Tôi thích câu chuyện kể về một người cha kia, ông đọc truyện tích Kinh Thánh cho cậu con trai mới có 5 tuổi nghe về Môise và 10 Điều Răn. Ông hỏi: "Con ơi, Đức Chúa Trời ban cho Môise bao nhiêu điều răn?" Cậu bé nhanh nhẩu đáp: "Nhiều lắm!" Cậu bé đáp đúng. Mười điều răn vĩ đại ấy là quá nhiều và quá khó cho bất kỳ ai trong chúng ta phải giữ lấy. Chúng ta không được xưng công bình bởi tuân giữ luật pháp vì chúng ta không thể tuân giữ được luật pháp.
D. Chúng ta chỉ có thể được xưng công bình bởi đức tin mà thôi.
Hãy xem lại chữ đầu tiên trong câu 16: "đã biết". Đây là điều mà Phaolô và Phierơ đã biết. Đây là điều mà chúng ta cần phải biết. Chúng ta cần phải biết rằng "người ta [không có ai] được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp [hay là một người nhơn đức] đâu, bèn là cậy ĐỨC TIN trong Đức Chúa Jêsus Christ".
Chúng ta không thể sống trọn lành trước mặt Đức Chúa Trời trừ ra Chúa Jêsus có thể. Ngài là Con của Đức Chúa Trời sanh bởi nữ đồng trinh. Ngài đã giữ luật pháp mà chúng ta không thể giữ được. Không những Ngài là người nhơn đức; mà Ngài còn trọn lành nữa. Ngài đã sống một đời sống trọn vẹn và rồi Ngài đã chết một cái chết có tính cách hy sinh. Ngài gánh lấy mọi thất bại, mọi lầm lỗi, mọi sai quấy, và mọi tội của chúng ta trên chính mình Ngài tại cây gỗ. Kinh Thánh chép trong Rôma 5.8: "Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết".
Phaolô nói về bản thân ông và Phierơ: "nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ". Đây không phải là điều dành cho ai khác hay chỉ cho dân Ngoại đâu. Phaolô và Phierơ và nhiều người Do thái khác đã "tin" theo Chúa Jêsus. Họ đã đặt lòng tin cậy của họ nơi Ngài, chớ không đặt nơi tôn giáo để khiến họ làm hoà lại với Đức Chúa Trời.
Những gì là thực đối với Phaolô, Phierơ, người Do thái và dân Ngoại thời buổi ấy là thực đối với quí vị và tôi hôm nay. Nếu tôi muốn làm hoà lại với Đức Chúa Trời, nếu chúng ta muốn được tuyên bố mình không phạm tội hay “được xưng công bình”, thì chúng ta phải nhơn đức tin mà đến với Đức Chúa Trời.
Kevin Miller thuật lại câu chuyện kể về một thiếu nữ 16 tuổi từ vùng ngoại ô Chicago, cô gái lái xe lúc ban đêm với nhiều bạn bè, và cô ta đã cho xe lui đụng vào cây cột đèn. Cây cột bị gãy rồi ngã về đàng trước, đập vào đầu chiếc xe. Một người bạn 12 tuổi ngồi trong xe đã bị thương nặng; thế rồi nó bị chết não bộ khi đến tại bịnh viện. Một vị Mục sư trẻ tuổi tên là Michael đi bộ với gia đình của cô gái 12 tuổi kia đến để tìm biết sự thật và tìm cách cứu cô gái đó. Sáng hôm sau, Michael đến thăm tại phòng bịnh của cô gái lái xe 16 tuổi. Về thể xác, cô nầy đã hồi phục tốt, nhưng về tình cảm, cô ta đã bị quẫn trí khi biết được mọi hành động của mình đã giết chết người bạn kia. Cô nói với Michael: “Tôi sẽ làm con gái cho bố mẹ của bạn ấy. Tôi sẽ đi qua nhà của họ mỗi ngày và trông em hộ cho họ. Tôi sẽ rửa chén đĩa cho họ mỗi tối. Tôi sẽ qua đấy mỗi tuần và cắt cỏ sân cho họ". Michael từ từ giúp cho cô gái ấy nhìn biết sự thực rằng bất luận cô ta có làm gì đi nữa, cô ta sẽ không thể thay thế cho con gái của họ được. Cô ta sẽ không thể làm đủ để bao che cho mọi việc làm của mình. Mọi sự cô ta có thể làm là cầu xin sự tha thứ và hy vọng rằng bố mẹ sẽ thấy được vấn đề để tha thứ cho cô ta. Bố mẹ bị mất con gái kia, ngạc nhiên thay, đã tha thứ cho cô gái lái xe nầy. Cô ta được buông tha không phải trả một món nợ mà cô ta sẽ không bao giờ trả nổi dù cô ta có làm gì đi nữa.
Chúng ta mắc một món nợ mà chúng ta không thể trả nổi. Bất luận có bao nhiêu việc lành mà chúng ta đã làm, chúng ta không bao giờ khoả lấp được cho tội lỗi của mình. Chỉ khi chúng ta nhơn đức tin mà đến với Đức Chúa Trời, cầu xin sự tha thứ cho mọi tội của chúng ta và tin cậy nơi sự hy sinh mà Chúa Jêsus đã làm ra cho chúng ta trên thập tự giá để chúng ta có thể làm hoà lại với Đức Chúa Trời.
II. HÀNG RÀO NGĂN TRỞ thường xuyên của chúng ta là Luật pháp (các câu 17-18).
Hãy chú ý chữ "nhưng" ở phần đầu câu 17. Khi quí vị tranh luận với ai đó, quí vị bước vào bằng chữ “nhưng”. Quí vị nói: "Nhưng về…" Phaolô đang chặn trước sự bàn tán của người Do thái về luật pháp.
Đây là một câu khó, cho phép tôi giấu nó trong ngoặc kép: "Nếu Đức Chúa Trời xưng công bình hạng người xấu xa, thì làm lành để có mục đích gì chớ? Chúng ta không thể làm như chúng ta thích và sống như chúng ta muốn sao?" Nói cách khác: "Nếu chúng ta được xưng công bình hay được làm hoà lại với Đức Chúa Trời mà không cần giữ luật pháp hoặc trở thành hạng người nhơn đức thì chúng ta có thể phạm đủ thứ tội mà chúng ta muốn phạm. Nếu chúng ta không phải làm ra các việc lành mong đẹp lòng Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Jêsus Christ đang khuyến khích tội lỗi của chúng ta".
Phaolô nhấn mạnh rằng: "Chẳng hề như vậy!" hoặc: "Đức Chúa Trời cấm" (theo bản Kinh Thánh KJV), tuyệt đối cấm! Chúa Jêsus không phải là "làm tôi của tội lỗi" đâu. Ngài không khiến chúng ta phải phạm tội, mà tha thứ tội lỗi chúng ta. Nếu tôi tin cậy nơi Chúa Jêsus song quay trở lại với đời sống cũ và phục theo mọi tội lỗi cũ của mình mà tôi thường phạm phải, ấy không phải là lỗi của Ngài mà là lỗi của tôi. Phaolô nói trong câu 17: "chính chúng tôi bị nhận là kẻ có tội".
Hãy suy nghĩ tới luật pháp giống như một cặp đường rầy đưa dân sự của Đức Chúa Trời đến nơi mà họ định đi. Đầu máy là ân điển của Đức Chúa Trời vận hành bởi Đức Thánh Linh. Các chỗ kết nối là đức tin. Những gì người Do thái làm đã hủy phá cặp đường rầy của Đức Chúa Trời (luật pháp). Họ dở các đường ray, đinh đóng đường ray và thanh đổi hướng và sử dụng chúng để làm một cái thang bắt lên tới tận trời. Việc làm nầy chẳng đi tới đâu hết.
Luật pháp chẳng hề cứu được ai. Chúng ta chú ý tới vấn đề nầy từng chi tiết trong vài tuần lễ, nhưng hãy chú ý 3.24: "Ấy vậy, luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Đấng Christ, hầu cho chúng ta bởi đức tin mà được xưng công bình". Nói cách khác, khi quí vị tìm cách tuân giữ 10 Điều Răn thì quí vị nhìn nhận rằng mình không thể giữ chúng được, quí vị phải nhơn đức tin mà quay về với Chúa Jêsus.
Một vị Mục sư thuật lại về việc đi đó đi đây bằng xe hơi cùng với gia đình vào buổi tối mùa hè kia. Đứa con trai 3 tuổi của ông, ngồi ở băng phía sau xe. Sau nhiều dặm đường lái xe trong bóng tối tăm, họ đến tại ngọn đèn đỏ trong một khu dân cư xa xôi nọ. Ánh sáng của ngọn đèn giao thông. Ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn giao thông bày tỏ ra sự dơ bẫn, và các thứ côn trùng trên kính chắn gió. Cậu bé kia nói: "Nào, chúng ta quét sạch nó đi, đồ bẩn thĩu”. Vị Mục sư không suy nghĩ chi về lời nói của nó cho tới chừng một phút sau đó khi họ lái xe đi — cách xa ngọn đèn và trở lại với bóng tối tăm. Khi trở lại với bóng tối, ông ấy không còn nhìn thấy tình trạng dơ bẫn nữa trên kính chắn gió và đứa con ông mau mắn nói: "Bây giờ, tấm kính đã được sạch rồi!" Trước khi luật pháp đến, sự dơ bẫn bên trong chúng ta còn bị giấu dưới bóng tối tăm. Nhưng khi Đức Chúa Trời ban ra luật pháp, ánh sáng của nó chiếu trên tấm kính chắn gió của lòng chúng ta và bày ra sự dơ bẫn của tội lỗi mà chúng ta vướng phải trên chuyến hành trình của mình. Khi ấy, luật pháp là một ngọn đèn tỏ ra cho chúng ta thấy chúng ta thực sự tội lỗi là dường nào. Nó không thể thanh tẩy chúng ta hay làm cho chúng ta được sạch hết được. Nhưng nó làm nổi bật lên tình trạng thực của linh hồn chúng ta và nhơn đó dẫn chúng ta đến với Đấng Christ.
III. HY VỌNG duy nhứt của chúng ta đặt nơi thập tự giá (các câu 19-21).
A. Chúng ta phải chết đối với bản ngã.
Phaolô đưa ra một câu nói rất lạ ở trong câu 19. Ông nói: "Vả, bởi luật pháp, tôi đã chết cho luật pháp…". Một phim hoạt hoạ, có hai người ngồi trong phòng khách đang bận bịu với việc nghiên cứu Kinh Thánh. Một trong hai phụ nữ đó nói: "Tôi chưa thực chết đối với tội lỗi, nhưng tôi cảm thất ngột ngạt sao đó".
Khi vị sứ đồ nói rằng ông "bởi luật pháp chết cho luật pháp", ông có ý nói rằng khi cố tuân giữ luật pháp, ông nhận biết luật pháp chẳng có tác dụng chi hết. Ông đã cố gắng, song không thể tuân giữ được luật pháp. Ông có thể giữ một số điều luật nhưng chẳng giữ được hết luật pháp đâu. Có thể trong mọi sự ông đã làm theo rất đúng, nhưng trong đó ông đã làm sai ba điều. Ông đã viết về sự phấn đấu của mình ở Rôma 7.19: "vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn". Nghe có thuận tai không?
Ông đã thu thập đủ thứ thành tựu về tôn giáo, mọi học vị thần học, các giải thưởng trong khi phục vụ, tất cả những điều lành và rồi xem chúng chỉ là một đống phân (Philíp 3.8). Ông "đã chết" đối với chúng. Nói như vậy giống như ông đang nói: "Trong một thời gian dài tôi đã mang một chiếc mặt nạ, tôi cứ bám vào mọi thành tựu của mình rồi tìm cách gây ấn tượng với Đức Chúa Trời bằng những gì tôi đạt được và tôi nhơn đức như thế nào!?! Sâu lắng trong tôi, tôi biết mình là một tội nhân. Sau cùng, tôi lột bỏ chiếc mặt nạ rồi thành thực với lòng và với Đức Chúa Trời. Chỉ trong một phút thôi, khi tôi chết đối với bản ngã thì tôi mới thực sự sống cho Đức Chúa Trời".
Nhà cải chánh vĩ đại, Martin Luther đã có cùng kinh nghiệm ấy. Có lần ông đã viết: "Nếu từng có một thầy tu được vào thiên đàng do tu hành, tôi sẽ không được vào đó đâu; tất cả các anh em tôi sẽ làm chứng về điều đó. Vì nếu điều nầy cứ kéo dài mãi, tôi sẽ làm cho bản ngã tôi phải chịu chết với lời kinh cầu lúc ban đêm, những lời cầu nguyện, đọc sách cùng mọi việc làm khác nữa". Cảm tạ Chúa, ông đã khám phá ra hy vọng của ông đã đặt nơi Chúa Jêsus.
B. Chúng ta phải chết với Chúa Jêsus
Câu 20 có lẽ là câu hay nhất trong sách Galati. Đây là chiếc vương miện của cả quyển sách. Câu nầy cho biết hy vọng nơi Đức Chúa Jêsus Christ có ý nghĩa như thế nào!?!
Chúng ta đã học biết rồi, chúng ta không thể gây ấn tượng cho Đức Chúa Trời bằng cách sống nhơn đức, làm lành, tuân giữ luật pháp hay sống theo tôn giáo. Hết thảy chúng ta không với tới mục tiêu đó. Như vậy, chúng ta sẽ có hai vấn đề còn lại. Thứ nhứt, chúng ta có thể CHỊU THUA. Có nhiều người làm như thế. Họ hình dung, nếu tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời quá cao như thế, thì mục tiêu là gì? Nếu chúng ta không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bất luận điều chi chúng ta làm, vậy thì sao lại cố gắng chứ? Chúng ta sẽ làm theo những gì chúng ta mong muốn, ăn uống và sung sướng đi rồi ngày mai chúng ta sẽ chết. Buồn thay, có nhiều người đang sống theo cung cách nầy. Thứ hai, ấy là chúng ta có thể HY VỌNG TRONG ĐẤNG CHRIST. Cho phép tôi giải thích:
Phaolô "đã chết đối với luật pháp" nhưng ông cũng đã chết với Chúa Jêsus nữa. Ông nói trong câu 20: "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ". Wow! Ông nói gì vậy? Phaolô không bị "đóng đinh vào thập tự giá" về phần xác. Ông không "chết” về mặt thuộc thể. Sự Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá đã xảy ra rất lâu trước khi Phaolô trở thành một Cơ đốc nhân. Điều ông muốn nói, ấy là bởi đức tin ông đã tiếp nhận sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá vì cớ tội lỗi của ông. Khi ông thôi không tin cậy vào bản thân mình và khởi sự tin cậy Chúa Jêsus, ông đã chết đối với đời sống cũ của ông.
Hãy chú ý mệnh đề thứ hai trong câu 20: "mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi". Phaolô đã "chết" đối với đời sống cũ và giờ đây đang sống một đời sống mới. Khi một người nhơn đức tin đến với Đấng Christ, mọi sự đều thay đổi. II Côrinhtô 5.17 chép: "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới".
Thật là một câu nói rất kín nhiệm, rất tuyệt vời! Tôi không còn là tôi như trước khi tôi gặp Chúa Jêsus nữa. Cái tôi cũ đã CHẾT C-H-Ế-T! Cái tôi mới hoàn toàn khác biệt. Không phải là tôi đổi tính hay luyện tập quyền phép làm thay đổi đâu. Không đâu, điểm khác biệt, ấy là "Đấng Christ sống trong tôi". Chúa Jêsus đang sống hôm nay, Ngài ngồi bên hữu của Đức Chúa Cha, nhưng Ngài còn sống ở trong tôi nữa. Sống "trong Đấng Christ" có nghĩa là Chúa Jêsus đang thể hiện sự sống của Ngài, những ưu tiên một của Ngài, và tình yêu của Ngài qua đời sống tôi. Cái tôi cũ đã chết và Chúa Jêsus đã cất bỏ nó đi!
C. Chúng ta phải sống bằng đức tin.
Bởi vì "Đấng Christ sống trong tôi" Phaolô nói: "nay tôi còn sống trong xác thịt [đời sống nầy tôi hiện đang sống đây] ấy là tôi sống trong ĐỨC TIN". Quí vị có theo kịp không? Chúng ta được cứu bởi đức tin chớ không phải bởi việc làm. Chúng ta sống bởi đức tin, chớ không phải bởi việc làm. Hiện nay tôi được cứu, phương thức duy nhứt tôi có thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là bởi đức tin.
Hãy lắng nghe Stott một lần nữa: "Theo một ý nghĩa, chúng ta sống đời mới nầy nhơn đức tin trong Đấng Christ. Theo một ý nghĩa khác, ấy không phải chúng ta đang sống nữa, mà là Đấng Christ đang sống trong chúng ta. Và, khi sống trong chúng ta, Ngài ban cho chúng ta những ao ước mới về sự thánh khiết, về Đức Chúa Trời, về thiên đàng. Nói như thế chẳng phải là chúng ta không thể phạm tội nữa đâu; chúng ta có thể đấy. Nhưng chúng ta không muốn phạm tội. Toàn bộ lề thói hàng ngày trong đời sống chúng ta đều đã thay đổi. Bây giờ, mọi sự đều khác hẳn hết, vì bản thân chúng ta đã ra khác".
Sống bởi đức tin có nghĩa là tin cậy Chúa Jêsus từng giây phút một, sống trong mối tương giao thường trực. Vì "Đấng Christ sống trong tôi" tôi không hề sống một mình bao giờ. Qua sự hiện diện ở bên trong của Đức Thánh Linh, Ngài luôn luôn ở với tôi. Ngài không hề lìa khỏi tôi cũng không quên tôi. Khi tôi phạm tội, Ngài thuyết phục tôi. Khi tôi ngã lòng, Ngài yên ủi tôi. Khi tôi sai trái, Ngài dạy dỗ tôi. Khi tôi có cần, Ngài tiếp trợ cho tôi. Khi tôi yếu đuối, Ngài làm cho tôi được mạnh mẽ. Khi tôi kiêu ngạo, Ngài hạ tôi xuống. Khi tôi ở trong sự nghi ngờ, Ngài bảo đảm cho tôi. Ngài là MỌI SỰ đối với tôi!
Thế nào chứ? Tại sao điều nầy là sự thực? Bởi vì, như Phaolô nói: "Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi". Nếu Ngài chỉ yêu tôi mà không thể cứu giúp tôi, tôi sẽ chẳng có hy vọng gì hết. Nếu Ngài có thể cứu giúp tôi nhưng chẳng yêu thương tôi thì tôi vẫn còn sống trong vô vọng. Nhưng vì Ngài yêu tôi và sẵn lòng phó chính mình Ngài vì tôi, tôi có thể sống đời sống tôi trong sự tin cậy hoàn toàn và tuyệt đối nơi Ngài. Tôi thích lẽ thật đã được tỏ ra ở Rôma 8.32: "Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?"
D. Chúng ta phải nhìn tới trước chớ không ngó lại sau.
Trong câu 21, bây giờ Phaolô nói sau khi đặt lòng tin cậy nơi Đấng Christ, chớ không đặt vào luật pháp hay các việc lành riêng của chúng ta, không quay trở lại và tìm cách gây ấn tượng cho Đức Chúa Trời bằng khả năng giữ luật pháp hay sống nhơn đức, sẽ làm cho "ân điển Đức Chúa Trời ra vô ích". Ông nói: "vì nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Đấng Christ chịu chết là vô ích". Nói cách khác, nếu tôi có thể làm đẹp lòng bằng cách sống nhơn đức, thì sự chết của Chúa Jêsus là vô mục đích.
Các Cơ đốc nhân người Do thái đã tin cậy nơi Đấng Christ nhưng giờ đây muốn quay trở lại với việc tuân giữ luật pháp chớ không nhìn biết Đấng Christ đã giữ luật thay cho họ rồi. Ngày nay, có nhiều người đem lòng tin cậy nơi Đấng Christ để được cứu, nhưng thay vì thưởng thức mối tương giao kỳ diệu của họ với Đấng Christ, họ lại quay sang tôn giáo. Họ tìm cách tuân giữ luật pháp, nghi thức và điều lệ do con người lập ra. Các việc nầy đã cướp đi khỏi họ sự vui mừng và đem đau buồn đến cho Chúa Jêsus.
Nếu tôi không thể gây ấn tượng với Đức Chúa Trời bằng các việc lành của tôi trước khi tôi được cứu, tôi sẽ không hề gây ấn tượng với Ngài bằng các việc lành sau khi tôi được cứu. Tôi không cần gây ấn tượng với Ngài. Tôi chỉ cần ân điển của Ngài mà thôi. Không có một việc gì tôi có thể làm sẽ khiến Ngài yêu thương tôi nhiều hơn hay ít hơn. Tôi đã được cứu trong quá khứ bởi ân điển của Ngài, ngày hôm nay tôi đứng vững trong ân điển của Ngài và hy vọng của tôi trong tương lai chính là ân điển của Ngài.
Một người săn vịt đã ở với người bạn của mình trong vùng đất rộng lớn ở miền đông nam Georgia. Xa xa ở đường chân trời, ông để ý thấy một đám mây khói bốc lên. Không lâu sau đó, ông có thể nghe thấy tiếng cơn gió vần vũ đến. Ông nhìn biết sự thực rất khủng khiếp, một ngọn lửa đang tới gần, nhanh đến nỗi họ không thể tránh được nó. Lục lọi trong mấy cái túi áo của mình, sau đó ông ta tìm thấy cái mà ông cần tìm – một quyển sách nói tới cách tránh thoát ngọn lửa. Ông ta đốt lên một ngọn lửa nhỏ ở quanh hai người. Không lâu sau đó, họ đã đứng trong một vòng tròn đen ngòm, chờ đợi ngọn lửa đến. Họ không phải chờ đợi lâu. Họ dùng khăn tay để che mồm mình lại và ôm lấy nhau. Ngọn lửa đến gần và lướt qua họ. Nhưng họ thì hoàn toàn không bị thương tích, không bị một thứ gì động đến. Ngọn lửa sẽ không đi qua ở chỗ mà ngọn lửa đã đi ngang qua rồi.
Luật pháp giống như một ngọn lửa vậy. Tôi không thể tránh né được nó. Còn nếu tôi đứng vững trong nơi đã từng bị thiêu đốt, thì chẳng một sợi tóc nào trên đầu tôi sẽ bị cháy xém. Sự chết của Đấng Christ là một chỗ đã từng bị thiêu đốt hoàn toàn. Tôi nằm rúc mình ở đó, chỉ tin thôi và được bình an. Luật pháp rất có quyền lực, thế mà lại vô quyền. Sự chết của Đấng Christ đã tước hết mọi tác hại của luật pháp.