Thứ Tư, 23 tháng 3, 2011

Galati 4.12-20: "Về Mục sư và dân sự"


Tự do thật – Galati
Về Mục sư và dân sự
Galati 4.12-20
Lên tới điểm nầy trong thư tín Galati, chúng ta đã nhìn thấy sứ đồ Phaolô là nhà thần học, nhà tranh luận và là vị sứ đồ, nhà biện hộ cho đức tin. Trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy ông không giống như một nhà truyền đạo lo công bố các lẽ thật đời đời, mà là một vị Mục sư dịu dàng lo chăm sóc dân sự của mình.
Trong câu 11, ông hơi bực bội và có lòng lo cho các tín hữu Galati: "Tôi lo cho anh em, e tôi đã làm việc luống công giữa anh em". Trong câu 12, ông gọi họ là: "anh em". Trong câu 19, ông gọi họ là: "hỡi các con". Ông vất vả đối với họ giống như một người mẹ đang "làm việc".
Vai trò của một vị Mục sư rất là đặc biệt. Ông phải thật mạnh mẽ và can đảm, lo bảo hộ bầy chiên tránh khỏi bầy muông sói hay cắn nuốt và cái giá kinh khủng của tội lỗi. Tuy nhiên, cùng lúc ấy ông phải dịu dàng và tử tế nữa, lo băng bó các vết thương và thể hiện sự yên ủi của Đấng Christ. Phaolô tỏ ra có sự cân nhắc các quan điểm ấy. Tôi từng đọc thấy có người mô tả ông như đang có "một bàn tay bằng thép trong đôi găng bằng nhung". Có người cho rằng một vị Mục sư phải có "ý chí của một học giả, tấm lòng của một đứa trẻ, và lớp da của một con tê giác".
Vì tính cách riêng tư của phân đoạn Kinh Thánh nầy, có nhiều điều chúng ta sẽ tiếp thu về mối quan hệ giữa bất kỳ một vị Mục sư nào và dân sự mà Đức Chúa Trời đã giao cho ông chăn dắt. Sau khi xem xét ba yếu tố chính của phân đoạn gốc, chúng ta sẽ đưa ra hai phần ứng dụng thực tế cho mối quan hệ giữa vị Mục sư và dân sự.
I. LỜI KÊU GỌI đầy thách thức của Phaolô đối với dân sự (câu 12a).
A. Hãy giống như TÔI.
Trước tiên, vị sứ đồ nói: "Hỡi anh em, tôi xin anh em hãy giống như tôi; vì tôi cũng như anh em". "Anh em" cho thấy sự thân mật của Phaolô, còn "xin" chỉ ra cảm xúc mãnh liệt của ông. "Xin" có ý "van xin, nài nĩ hay khẫn khoản". Ông đang nài nĩ họ nên xây khỏi xu hướng tôn giáo thiên về với luật pháp không có sự sống và thưởng thức sự tự do, quyền phép, và niềm vui mừng mà ông đã tìm thấy trong Đấng Christ.
Trong Công vụ Các Sứ Đồ 26, Phaolô đưa ra lời biện hộ sáng chói về Cơ đốc giáo trước mặt vua Ạt-ríp-ba của Rôma. Sau khi Phaolô trình bày xong, Ạt-ríp-ba nói: "Thiếu chút nữa ngươi khuyên ta trở nên tín đồ Đấng Christ!" (câu 28). Phaolô đáp lại: "Cầu xin Đức Chúa Trời, chẳng kíp thì chầy, không những một mình vua, nhưng hết thảy mọi người nghe tôi hôm nay đều trở nên như tôi, chỉ trừ bỏ xiềng nầy thôi!" Nói cách khác, ông đang tâu rằng: "Tôi không muốn vua bị trói buộc trong xiềng xích giống như tôi, nhưng tôi muốn vua nhìn biết sự tự do mà tôi đang có trong Đấng Christ là sự tự do trổi cao hơn xiềng xích nhiều".
Chúng ta có dám nói với người khác, đặc biệt là những người chưa tin Chúa: "Tôi xin anh em hãy trở thành một Cơ đốc nhân giống như tôi" không? Chúng ta có dám nói: "Tôi đã tìm được ân điển, vui mừng, sự cứu rỗi, sự thoả lòng trong Đấng Christ đến nỗi tôi muốn anh em hãy trở nên giống như tôi" không? Hoặc chúng ta than phiền và rên rỉ về những gì chúng ta chưa có? Chúng ta có dám nói với Vua David: "Đức Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu tốn gì" (Thi thiên 23.1) hay chúng ta đang nói: "Tôi thiếu thốn, tôi thiếu thốn, tôi thiếu thốn?" Phaolô đã nói trong Philíp 4.11: "Không phải tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy". Ông đã tìm được sự thoả lòng trọn vẹn nơi Chúa Jêsus. Nếu chúng ta tuyệt đối thoả lòng nơi Chúa Jêsus chúng ta có thể nói với bất kỳ ai, hãy giống như tôi!
B. Vì tôi cũng như ANH EM.
Phaolô đã xin họ trở nên giống như ông vì ông nói: "Vì tôi cũng như anh em". Khi ông đến với Đấng Christ ông đã ném bỏ từng mãnh vụn của luật pháp. Ông đã thôi không cố gắng làm đẹp lòng người Do thái với các nội quy, nghi thức và điều lệ và đã sống đời sống mình chỉ để nhận biết Đấng Christ thôi. Vì ông không còn bị trói buộc bởi những truyền khẩu do con người lập ra, ông có thể dấn thân vào bất kỳ nhóm nào mà ông gần gũi với.
Ông đã viết trong I Cô-rinh-tô 9.20-22: "Với người Giu-đa, tôi ở như một người Giu-đa, hầu được những người Giu-đa; với những người dưới quyền luật pháp, (dầu chính tôi chẳng ở dưới quyền luật pháp), tôi cũng ở như kẻ dưới quyền luật pháp, hầu được những người dưới quyền luật pháp; với những người không luật pháp, (dầu đối với Đức Chúa Trời tôi không phải là không luật pháp, vì tôi ở dưới luật pháp của Đấng Christ), song tôi cũng ở như người không luật pháp. Tôi ở yếu đuối với những người yếu đuối, hầu được những người yếu đuối; tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người, để cứu chuộc được một vài người không cứ cách nào”.
Khi Phaolô lần đầu tiên đến với xứ Galati, mặc dù ông là một người Do thái, ông quyết định sống giống như một người Ngoại. Ông đã gạt qua một bên những truyền thống của mình và đồng hoá với họ.
Đây là một nguyên tắc quan trọng cho chức vụ ở bất kỳ một phạm trù nào. Để khiến cho người ta trở nên giống như chúng ta, chúng ta phải trở nên giống như họ. Nếu cứu cánh đáng ước ao là muốn thấy họ trở nên giống như chúng ta, là những tín đồ biết đầu phục trọn vẹn, phương tiện cho cứu cánh đó là phải biến mình ra giống như họ. Chúa Jêsus đã làm như thế. Ngài đã lìa bỏ sự vinh hiển của thiên đàng để trở nên giống như chúng ta để Ngài có thể đưa chúng ta về thiên đàng cùng với Ngài.
Khi các vị giáo sĩ đến với các xã hội ngoại quốc như Nga sô, châu Phi hay Nhật bản, họ phải hoà vào xã hội ở chung quanh họ. Họ phải học biết để sống giống như hạng người mà họ đang tìm cách tiếp cận.
Hỡi Hội thánh, chúng ta đang sống trong một xã hội đang nhanh chóng thay đổi. Con người ngày nay rất khác biệt với con người đã sống cách đây 50 năm hay thậm chí cách nay 10 năm. Họ ăn mặc rất khác, nghe nhạc cũng khác, nói năng khác biệt và có những giá trị khác với người ta cách đây một thế hệ. Nếu chúng ta muốn họ trở nên giống như chúng ta, chúng ta phải bằng lòng trở nên giống như họ… ít nhất ở một chừng mực nào đó. Chúng ta không thể điều hành Hội thánh theo cách Hội thánh sinh hoạt cách đây 50 năm, hoặc thậm chí cách đây 10 năm và mong mỏi thu được hiệu quả, hoặc muốn đạt được thành công. Bao lâu chúng ta không vi phạm các nguyên tắc cụ thể của Kinh Thánh, chúng ta phải trở nên giống như hạng người mà chúng ta muốn tiếp cận để khiến cho họ trở nên giống như chúng ta!
II. THÁI ĐỘ hay thay đổi của dân sự đối với Phaolô (các câu 12b-16).
A. Lúc đầu, họ đã xem Phaolô giống như một THIÊN SỨ (các câu 12b-15).
Trước tiên, Phaolô nói ở phần cuối của câu 12: "Anh em không làm hại gì cho tôi" hay "Anh em chẳng phạm gì sai đối với tôi". Khi Phaolô lần đầu tiên đến với xứ Galati, họ chẳng làm hại ông, mà họ còn tiếp nhận ông cách yêu thương nữa. Họ đã tiếp nhận ông giống như người đồng hương của họ vậy.
Thứ hai, ông nói cho chúng ta biết trong câu 13 rằng sở dĩ như vậy là vì "đang lúc xác thịt yếu đuối mà tôi truyền Tin Lành cho anh em lần thứ nhất". Trên chuyến hành trình truyền giáo lần đầu tiên, Phaolô mắc bịnh nặng khi ở trong xứ Galati hay đi đến đó để chữa trị căn bịnh nặng ấy. Nhiều học giả cho rằng ông bị nhiễm sốt rét trong các khu vực lầy lội xứ Bam-phi-ly rồi đi qua vùng cao nguyên xứ Galati để chữa trị. Dù sao, trong khi ở xứ Galati, Phaolô đã gánh chịu "xác thịt yếu đuối", nhưng không hạn chế khả năng rao giảng và dạy dỗ cho dân sự.
Rõ ràng là căn bịnh của Phaolô đã tồi tệ đủ để tạo ra một mức xa cách. Trong câu 14, ông nói: "vì xác thịt tôi yếu đuối sanh ra sự rèn thử cho anh em mặc dầu, anh em cũng chẳng khinh tôi, chẳng chối tôi". Nhiều bản dịch Kinh Thánh cung ứng phần đọc giống như trong bản dịch NIV: "tình trạng đau ốm của tôi là một sự thử thách cho anh em". Ý ở đây cho là tình trạng bịnh tật của Phaolô đã tạo cho ông một vẽ bề ngoài khó coi lắm và đấy chính là một sự "thử thách" cho người thành Galati khi nhìn thấy ông. Dầu vậy, họ đã chẳng "khinh, chẳng chối" ông. "Khinh" có ý nói tới "chẳng kể là gì hay không có giá trị chi hết". "Chối" có nghĩa là "kinh tởm, ghét" hoặc sát nghĩa hơn là "khạc nhổ, xem thường".
Hãy tưởng tượng đang sống trong một thời điểm với ít sự hiểu biết về y khoa, ít thuốc men tốt và không có bông băng vệ sinh xem. Nhiều chứng bịnh đã làm biến dạng con người. Những chỗ bị sưng loét và mùi hôi thối thường không thể chịu nổi. Dường như từ câu 15 “sự xác thịt yếu đuối” của Phaolô đã có việc phải làm với mắt và mặt của ông. Ngay cả vẽ bề ngoài của ông là rất khó coi, họ đã "chẳng khinh, chẳng chối" ông, mà còn cẩn thận lắng nghe mọi sự mà ông đã dạy dỗ họ nữa.
Ông nói: "mà lại tiếp rước tôi như một vị thiên sứ của Đức Chúa Trời, thật như chính mình Đức Chúa Jêsus Christ". "Thiên sứ" là một từ ngữ khác nói tới "sứ giả". Thay vì khinh dễ ông, họ đã công nhận ông là một vị sứ đồ, một sứ giả của Chúa nữa. Họ đã tiếp nhận ông với cùng một sự tiếp đón mà họ đã dành cho "Đức Chúa Jêsus Christ".
Người thành Galati không thắc mắc Phaolô trông như thế nào hay ông đã nói gì!?! Họ đã tiếp nhận ông trong vai trò sứ giả sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ và họ rất biết ơn vì các ơn phước của sự sống thuộc linh và sự tự do mà họ đã có được từ sự dạy của ông.
Trong câu 15, giờ đây Phaolô hỏi họ: "Vậy thì sự vui mừng [sự thoả lòng, thiện ý, sát nghĩa là vẽ đẹp đẽ] của anh em đã trở nên thể nào?" Bản dịch NCV đưa ra câu hỏi như thế nầy: "Anh em đã sống rất phước hạnh rồi, nhưng sự vui mừng ấy bây giờ ở đâu?"
Hãy hình dung thời buổi phước hạnh ấy trong xứ Galati xem. Hãy tưởng tượng những ngày tháng mà Phaolô đã ở với họ xem. Đã có sự vui mừng khôn tả xiết và sự vinh hiển đã giáng trên họ. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã vận hành giữa vòng họ kêu la: "Aba Cha!" Sự thờ phượng của họ tự phát sinh và rất cảm động. Những buổi thờ phượng cầu nguyện kéo dài trong nhiều giờ đồng hồ liền và để lại cho họ nhiều giọt lệ vui mừng. Sự dạy dỗ, ah, sự dạy dỗ… họ đã ngồi bên mép ghế và dầm thấm từng lời lẽ mà Phaolô đã nói ra, cho dù vẽ bề ngoài của ông rất khó coi. Nhiều đời sống chung quanh họ đang được thay đổi. Bạn hữu, người thân, lánh giềng, bạn cùng làm việc đều được cứu rỗi. Người Do thái, người dân Ngoại, hạng nô lệ và người tự chủ, đờn ông đờn bà hết thảy đều tin cậy Đấng Christ và là "một thân" ở trong Ngài. Nhiều đời sống đã được thay đổi. Rượu chè không còn nữa. Tội lỗi bị đoạn tuyệt. Các mối ràng buộc thuộc linh sâu sắc đã phát triển. Nhiều mối quan hệ hôn nhân được phục hồi. Trẻ bụi đời đã trở về lại gia đình của chúng. Đức Chúa Trời đã làm việc lớn trong xứ Galati. Trên hết mọi sự, đã có một nhận thức rất mãnh liệt về "phước hạnh" hay sự thoả lòng.
Trong thời kỳ phước hạnh đó, họ yêu mến Phaolô nhiều lắm, đến nỗi ông nói: "Vì tôi làm chứng cho anh em rằng, lúc bấy giờ, nếu có thể được thì anh em cũng móc con mắt mà cho tôi". Dường như rõ ràng là ít nhất nơi phần “xác thịt yếu đuối” của Phaolô, ấy là nơi đôi mắt của ông. Có lẽ đây là "cái dằm trong xác thịt" mà ông đã đề cập tới ở II Cô-rinh-tô12.7-9.
Có người cho rằng "bịnh sốt rét đôi khi tấn công hệ thần kinh thị giác tạo ra sự mất đi tính xác định về màu sắc, hao mòn đi và thậm chí còn bị mù nữa". Bất kỳ lý do nào, chúng ta gần như dám chắc rằng Phaolô đã chịu đau đớn từ thị giác mắt rất kinh khủng. Trong 6.11, ông nói: "Hãy xem chính tay tôi viết thơ nầy cho anh em, chữ lớn là dường nào". Phaolô thường ghi trong các thư tín của ông và thêm vào một vài lời nói riêng tư ở phần cuối bức thư. Ở đây, ông nói tới "chữ lớn" cho thấy rằng ông phải thường viết bằng chữ lớn để giúp cho người ta xem chúng. Hãy tưởng tượng phần thị lực nặng nề trong thời điểm chẳng có một bác sĩ nhãn khoa, chẳng có máy đo thị lực, các cuộc giải phẩu bằng laser hoặc thấu kính chính xác nào hết. Phaolô đã sống phần đời còn lại của mình trong một tình trạng đời sống mình thật là mập mờ.
Tuy nhiên, người thành Galati vốn yêu mến ông nhiều lắm, đến nỗi họ đã "móc con mắt" của chính họ rồi đổi chúng với Phaolô nếu một sự cấy ghép là khả thi. Họ yêu mến ông nhiều đến nỗi họ sẽ đưa ra một sự hy sinh thay cho ông.
B. Sau đó, họ đã đối xử với Phaolô giống như một KẺ THÙ vậy (câu 16).
Hãy chú ý câu 16. Dường như Phaolô đang nói: "Anh em thường yêu mến tôi nhiều đến nỗi anh em sẽ hy sinh bất cứ thứ chi đối với tôi. Anh em đã đối đãi với tôi như một thiên sứ bất kể diện mạo xấu xí của tôi". Bây giờ ông nói: "Tôi lấy lẽ thật bảo anh em, lại trở nên thù nghịch của anh em sao?"
Điều chi đã xảy ra cho “phước hạnh” hay sự thoả lòng của họ vậy? Tại sao họ đối xử với kẻ họ yêu thương nhiều giống như “thù nghịch” của họ vậy? Người thành Galati đã có một sự trở mặt hoàn toàn. Tại sao chứ? Phaolô trả lời cho câu hỏi của chính ông: "…vì TÔI LẤY LẼ THẬT BẢO ANH EM!"
Tôi đồng ý với John Stott trong loạt bài nghiên cứu thư tín Galati nầy, nhưng hãy lắng nghe điều ông nói: "Có một bài học quan trọng ở đây. Khi người thành Galati công nhận thẩm quyền sứ đồ của của Phaolô, họ đã đối đãi với ông giống như một thiên sứ, thật như chính Đức Chúa Jêsus Christ. Thế nhưng khi họ không thích sứ điệp của ông, ông đã trở thành kẻ thù của họ. Họ thay đổi luôn luôn, và dại dột nữa! Thẩm quyền của một sứ đồ không chấm dứt khi ông bắt đầu giảng dạy các lẽ thật không được lòng người ta. Chúng ta không lựa chọn trong việc đọc lẽ đạo của các sứ đồ trong Tân Ước. Chúng ta không thể, khi chúng ta ưa thích những gì vị sứ đồ dạy dỗ, đối xử với sứ đồ ấy giống như một thiên sứ, và khi chúng ta không thích những gì sứ đồ dạy dỗ, lại thù ghét và chối bỏ ông ấy giống như một kẻ thù. Không, các sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ đều có thẩm quyền trong mọi sự họ dạy dỗ, dù chúng ta có tỏ ra thích hay không".
Đối với các mục tiêu của chúng ta, có một sự khác biệt giữa Phaolô và vị Mục sư của quí vị. Phaolô là một vị sứ đồ, tôi không phải là sứ đồ. Phaolô đã rao giảng với thẩm quyền trực tiếp từ Đấng Christ. Hội thánh được xây dựng trên cái nền của các vị sứ đồ và tiên tri (Êphêsô 2.20). Chúa Jêsus đã phán với các sứ đồ ở Giăng 20.21: "…Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy". Tôi không rao giảng cách trực tiếp cho Đấng Christ giống như các vị sứ đồ đã rao giảng. Tuy nhiên, khi tôi hay bất kỳ một vị Mục sư hay giáo sư nào phân phát Ngôi Lời, lẽ đạo của các sứ đồ cách đúng đắn, chúng ta đang rao giảng với thẩm quyền của các vị sứ đồ và nhơn đó với thẩm quyền của Đấng Christ.
Có người yêu mến vị Mục sư của họ bao lâu họ đồng ý với vị Mục sư ấy, nhưng đối xử với vị Mục sư ấy như kẻ thù nghịch khi họ thấy có bất đồng. Thật đáng buồn làm sao! Thật đáng tiếc dường bao! Thế là có ly gián! Nhiều thiệt hại đã xảy ra cho công việc của Nước Trời bởi hạng người nhỏ nhen, họ từ chối không chịu ở dưới thẩm quyền của Ngôi Lời!
Điều chi đã gây ra thái độ trở mặt nầy nơi người thành Galati? Có hai việc. Thứ nhứt, họ không còn tiếp tục bước theo lẽ đạo của các vị sứ đồ nữa (Công vụ Các Sứ Đồ 2.42). Thứ hai, họ đang nhắm vào truyền thống, chớ không nhìn về Chúa Jêsus. Hỡi Hội thánh, bất cứ lúc nào tiêu điểm của chúng ta đang nhắm vào "cách thức chúng ta làm mọi việc" hay các chương trình của chúng ta, chúng ta sẽ mất đi tầm nhìn về Chúa Jêsus. Khi chúng ta không còn nhìn xem Ngài nữa, chúng ta đang mất đi ý thức "phước hạnh" hay sự thoả lòng đến cùng với sự hiện diện của Ngài.
III. TÌNH CẢM Phaolô có đối với dân sự (các câu 17-20).
A. Tình cảm của Phaolô rất CHÂN THẬT (các câu 17-18).
Phaolô nói cho người thành Galati biết rằng các giáo sư giả, những kẻ theo giáo Giu-đa "vì anh em mà sốt sắng". Họ đã tôn người thành Galati lên theo cách không thành thật. Họ đã tạo ra một cơn rối rắm trên các tín hữu xứ Galati. Tiểu đoạn nầy đã được sử dụng để mô tả một người đờn ông gây rối cho một phụ nữ. Người đờn ông nầy nói cho nàng biết nàng đẹp đẽ như thế nào, nàng có mùi thơm ngọt ngào ra sao và nàng có một thể cách đáng yêu là ngần nào.
Những kẻ theo giáo Giuđa đã không thành thật trong lời tâng bốc của họ. Họ đã tâng bốc như thế "không phải là ý tốt" vì họ muốn "anh em lìa bỏ chúng tôi, hầu cho anh em sốt sắng vì họ". Họ muốn phong toả người thành Galati hay "trục xuất” họ ra khỏi sự tự do của ân điển Đức Chúa Trời để họ thao túng người thành Galati.
Phaolô nói trong câu 18: "Có lòng sốt sắng vì điều thiện thì tốt lắm". Nói cách khác, sốt sắng hay nhiệt thành thể hiện mọi niềm tin của một người là rất chơn thật. Tuy nhiên, luôn luôn có nhiều vị giáo sư và Mục sư có tánh muốn thao túng, họ có sức thu hút rất lớn, nhưng lại sử dụng nó để xây dựng vương quốc của mình, chớ không phải vương quốc của Đức Chúa Trời đâu.
Phaolô đã nói với Timôthê, II Ti-mô-thê 4.2-4: "hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn".
Ở mặt khác, Phaolô rất sốt sắng thành thực đối với họ. Ông muốn họ cứ tấn tới và trở nên giống như Chúa Jêsus, chớ không phải xu hướng theo một loạt dạy dỗ đặc biệt nào đó.
Phần hành mà Đức Chúa Trời đã ban cho các vị Mục sư, giáo sư là canh giữ, tỉnh thức những linh hồn trong hội chúng. Hêbơrơ 13.17 chép: "Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em".
Vào một buổi trưa ấm áp tháng 10 năm 1999, Anna Flores 36 tuổi đang đi dạo với đứa con gái 3 tuổi của mình trên phố Chicago. Bất ngờ có một goá phụ từ trên tầng 29 của toà nhà CNA rơi xuống đất và trúng nhằm đầu của Flores, khiến cho bà ngã chết tức khắc. Tai vạ đã lên tới cao điểm một tuần sau đó, khi các quan chức CNA nhìn nhận họ biết rõ người goá phụ kia đã tan vỡ từ tháng Sáu. Họ nói họ không thay thế người goá phụ nát lòng kia vì các dự án xây dựng khác được xem là ưu tiên hơn. Trong một toà nhà công cộng, sự sơ suất có những hậu quả rất nghiêm trọng. Sơ xuất thuộc linh cũng có những hậu quả nghiêm trọng nữa. Trong nhiều chiều hướng khác nhau, chúng ta chịu trách nhiệm về mặt thuộc linh đối với hạnh phúc của nhiều người khác.
B. Tình cảm của Phaolô rất DỊU DÀNG (các câu 19-20).
Ông gọi họ là "hỡi các con". Ông là một người cha thuộc linh đang nuôi nấng họ theo trình tự lớn lên của họ.
Ngay bây giờ ông nói: "Ta lại chịu đau đớn của sự sanh nở". Đây là một ẩn dụ rất khó. Ông đã chịu đau chịu khó với họ trước đây cho tới chừng họ đã được sanh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời. Giờ đây ông cảm thấy ông phải quay trở lại phòng sanh thêm một lần nữa.
Tấm lòng của bất cứ một vị Mục sư chân chính nào cũng luôn luôn chịu đau chịu khó vì sự tấn triển của dân sự mình. Chúng tôi chịu khổ vì quí vị trong sự cầu nguyện, dâng quí vị lên cho Chúa. Chúng tôi phấn đấu với quí vị khi quí vị tái phạm và lấy làm lạ khi quí vị chịu nắm bắt bài học mà Đức Chúa Trời đang dạy dỗ quí vị.
Phaolô "chịu đau đớn" là vì cái gì chứ? Ông nói: "cho đến chừng nào Đấng Christ thành hình trong các con". Tôi ưa thích mệnh đề đó. Phaolô không thấy thoả lòng khi Đấng Christ ngự trong họ. Ông ao ước Đấng Christ được thành hình ở trong họ. Ông muốn họ phải được nắn theo khuôn đúc hay hình thái của Đấng Christ! Ông muốn họ phải nhìn thấy họ đang đạt tới mức trưởng thành thuộc linh thật đầy trọn!
Mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta, mặc khải của Ngài dành cho chúng ta, ấy là Đấng Christ được thành hình trong chúng ta. Ngài mong muốn chúng ta phải trở nên giống như Chúa Jêsus. Chính vì lý do nầy mà Ngài đã chọn chúng ta. Rôma 8.29 chép: "Vì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài…".
Trong câu 20, chúng ta thấy lòng ước ao dịu dàng của Phaolô là muốn "được ở cùng các con". Ông nói nếu ông lại đến với họ, ông sẽ thay đổi "cách nói" của mình. Ông vốn biết rõ điều chi phải nói với họ vì ông đã cảm thấy bối rối và đã có một số điều "khó xử" về họ. Ông không còn cách nào khác hơn nữa.
IV. Hai ỨNG DỤNG cụ thể dành cho quí Mục sư và dân sự.
A. Dân sự phải nghe theo vì Đấng Christ đã được RAO GIẢNG qua Vị Mục sư.
Ngày nay không có vị Mục sư nào có địa vị của sứ đồ hết. Không có một sự kế tục ở hàng sứ đồ. Một vị Mục sư có thể không gạt bỏ luật pháp giống như một vị sứ đồ được. Hội thánh sẽ không ngăn trở ông mặc dù lời nói của ông là Lời của Đức Chúa Trời. Mỗi vị Mục sư vẫn được kêu gọi để rao giảng liên tục lẽ đạo của các sứ đồ trong Tân Ước. Bao lâu ông còn chơn thật với Ngôi Lời, dân sự sẽ dành cho sự dạy của ông lòng kính trọng mà họ đã dành cho một vị sứ đồ, thậm chí như cho chính mình Đấng Christ vậy.
Hội thánh không quan tâm quá mức đối với diện mạo bề ngoài của Vị Mục sư. Có thể ông xấu xí giống như tội lỗi hay giống như một nhân vật hàng đầu xuất thân từ Hollywood. Có thể là ông có điều kiện thể chất tốt hoặc đau ốm thường xuyên như Phaolô trong xứ Galati. Có thể ông sắp thôi việc hoặc sống thu mình, nội tâm. Có thể ông có nhiều ân tứ rất quan trọng hay đúng là một con người trung tín không phô trương lắm ở bề ngoài. Có thể ông có rất nhiều bằng cấp hay là một vị giáo sư tự học.
Quí vị không nên xét đoán vị Mục sư của mình và khiến ông thành "thù nghịch" dựa theo các tín điều thần học riêng tư. Chúng ta phải nhất trí trên các lẽ đạo chủ chốt nói về đức tin, nhưng có nhiều vấn đề quan trọng mà chúng ta có thể có sự bất đồng.
Có người đã nói như sau: "Chức năng thật của một nhà truyền đạo là quấy rối kẻ có đủ tiện nghi và yên ủi cho người bị rối rắm". Tiêu chuẩn duy nhứt theo Kinh Thánh mà một Hội thánh có nơi sự xét nét vị Mục sư của mình là lòng trung thành của ông ấy đối với Kinh Thánh. Nếu ông đang trung tín nghiên cứu và dạy dỗ Ngôi Lời giống như đã được đề ra bởi các sứ đồ qua sự cảm thúc của Đức Thánh Linh, thì đừng "xem khinh hay chối bỏ" ông ấy, mà hãy tiếp nhận ông giống như "một thiên sứ của Đức Chúa Trời, thật như chính mình Đức Chúa Jêsus Christ vậy". Tại sao chứ? Vì sứ điệp của ông thực sự không phải là sứ điệp CỦA ÔNG, mà là sứ điệp của Đức Chúa Jêsus Christ.
Đây là lý do tại sao Phaolô đã viết trong I Timôthê 5.17: "Các trưởng lão khéo cai trị Hội thánh thì mình phải kính trọng bội phần, nhất là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ".
Có bao giờ quí vị gặp “nhà truyền đạo khô khan” vào buổi ăn trưa Chúa nhựt chưa? Có bao giờ quí vị chỉ trích thói cầu kỳ, kiểu cách, những minh họa, kỹ thuật, giọng nói hay chiều dài sứ điệp của ông ấy chưa? Lý do duy nhứt bất kỳ Hội thánh nào đang có cho bất kỳ một hình thức chỉ trích nào đối với vị Mục sư chủ toạ của mình là trong trường hợp ông ấy không có lòng trung thành với sứ điệp trong Kinh Thánh.
Tôi thích lời lẽ của một học giả Kinh Thánh có tên là Merrill Tenney, khi người ta hỏi ông làm sao Hội thánh có được một vị Mục sư tốt hơn. Ông nói: "Nếu một Hội thánh muốn có một vị Mục sư tốt hơn, thì Hội thánh phải nhận lấy một người bởi sự cầu nguyện cho người mà mình muốn có".
B. Mục sư phải tìm cách để Đấng Christ được THÀNH HÌNH trong dân sự.
Nếu ưu tiên một của vị Mục sư là rao giảng sứ điệp của Đấng Christ, ưu tiên một của dân sự để Đấng Christ được thành hình ở trong họ là phải trở nên giống như Ngài. John Calvin đã viết: "Nếu các vị Mục sư mong muốn làm bất kỳ việc tốt lành nào, hãy để cho họ chịu sự đau đớn để hình thành Đấng Christ ở trong số người đang lắng nghe họ rao giảng, chớ không phải để hình thành cho bản thân họ".
Tôi muốn phát triển một Hội thánh lớn ở đây, nhưng đấy không phải là ưu tiên tối hậu của tôi đâu. Cái điều tôi muốn nhìn thấy nhất là quí vị đang được "biến đổi ra giống theo ảnh tượng của Đấng Christ". Điều long trọng nhất trong mọi lời cầu nguyện của tôi là sự tấn tới về mặt thuộc linh của quí vị. Mục tiêu của tôi là để cho quí vị được tự do ở trong Đấng Christ, chớ không phải bắt quí vị làm phu tù, nô lệ cho thật nhiều chương trình.
Trải qua thời gian, hết thảy chúng ta đều nếm trải nhiều lúc căng thẳng và khó khăn ghê gớm. Những thời kỳ nầy phô diễn sắc màu thật của chúng ta. Chúng tỏ ra rất rõ ràng chúng ta đang ở đâu về mặt thuộc linh. Tôi đã nhìn thấy một số người trong quí vị đang nếm trải những thời kỳ khó nhọc và vui mừng khi tôi nhìn thấy cách thức quí vị đáp ứng. Quí vị làm cho tôi phải ngạc nhiên với thái độ thuộc linh của quí vị và tôi nhìn thấy công tác của ân điển Đức Chúa Trời ở trong đời sống của quí vị. Tôi nhìn thấy một số khác trong quí vị đang trải qua những cơn thử thách và tôi rất đỗi kinh ngạc bởi quí vị chẳng có chút thuộc linh nào cả. Ở những thời điểm đó, tôi cảm nhận y như Phaolô và lấy làm lạ không biết tôi có "làm việc luống công giữa anh em" hay không nữa!?!
Tôi có thể làm việc qua hội chúng nầy sáng nay và xác định rõ ràng có nhiều, nhiều người mà tôi đã gặp gỡ đang tấn tới trong vai trò của hàng tín đồ. Tôi rất tự hào vì cớ quí vị đấy. Đấng Christ đang thành hình ở trong quí vị. Quí vị được nắn đúc theo đúng khuôn mẫu của Chúa Jêsus. Tôi còn có thể nhận ra dễ dàng một vài người còn đang tấn tới hơn thế nữa.
Cho phép tôi kết thúc với đôi điều mà Stott đã nói: "Hội thánh đang cần những người nào chịu nghe theo vị Mục sư của họ, nghe theo sứ điệp của Đấng Christ, và các vị Mục sư nào, khi đang làm việc giữa vòng dân sự, biết tìm kiếm ảnh tượng của Đấng Christ. Chỉ khi ấy Mục sư và dân sự đều hướng mắt mình nhìn xem Đấng Christ, mối quan hệ của họ sẽ giữ được lành mạnh, thích ứng và đang làm đẹp lòng Đức Chúa Trời Toàn Năng".
Nguyện chúng ta cùng nhau, cả Mục sư và dân sự, đều biết hướng mắt mình nhìn xem Chúa Jêsus và nhận ra ý thức “phước hạnh” hay sự thoả lòng kỳ diệu đang đến qua Ngài thay vì là truyền thống và các chương trình.

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2011

Galati 4.1-11: "Sống như Đức Chúa Con"

Tự do thực – Galati
Sống như Đức Chúa Con
Galati 4.1-11
Trẻ con vốn khao khát sự tự do. Khi tôi còn trẻ, tôi cứ đợi mình sẽ lớn lên. Tôi muốn có chiếc xe hơi riêng, một công việc làm tốt có lương khá, có nhà riêng và sự tự do muốn làm điều chi tôi muốn làm bất cứ khi nào tôi muốn làm điều đó. Tôi không muốn ai bảo tôi mấy giờ phải đi ngủ, mấy giờ phải thức dậy, phải ăn cái gì, phải mặc gì và phải làm gì. Tôi ao ước muốn được tự do. Trong suốt các năm tháng thiếu thời, bố mẹ tôi luôn kiểm soát tôi cách chặt chẽ. Họ không để cho tôi phóng túng quá, nhưng cứ dành cho tôi thêm tự do trong các liều lượng nhỏ mà thôi. Khi tôi lên 18 tuổi và tốt nghiệp trung học xong, mối quan hệ của chúng tôi đà thay đổi. Thay vì nói cho tôi biết mấy giờ phải về nhà, họ yêu cầu tôi phải hoạch định giờ nào phải về tới nhà. Thay vì nói cho tôi biết phải làm gì, họ bảo tôi điều chi là khôn ngoan nhất nên làm. Khi tôi lớn lên ở độ tuổi trưởng thành, bố mẹ tôi thôi không còn đối xử với tôi như một đứa trẻ nữa.
Giờ đây, tôi là một người lớn với mọi quyền tự do và trách nhiệm của một người lớn, giờ đây tôi đang có gia đình riêng, thật là dại dột cho tôi khi phải quay trở lại sống như một đứa trẻ. Có một loạt quảng cáo thương mại trên TV cho Holiday Inn trong đó có một thanh niên chưa trưởng thành, anh nầy vẫn sống với bố mẹ mình, cứ luôn đòi họ chu cấp cho mình mọi thứ xa hoa. Họ luôn luôn bật cười và nói: “Con nghĩ Holiday Inn là gì chứ?" Hãy tưởng tượng việc quay trở lại với ngôi nhà của bố mẹ mình xem, yêu cầu họ cho phép mọi sự và mong đợi họ tiếp trợ cho tôi Một người lớn có đủ tầm thước vóc giạc muốn sống giống như một đứa trẻ, họ là hạng người lớn đủ như một nỗi xấu hổ cho bố mẹ của mình.
Nói theo cách thuộc linh, đấy chính xác là những gì các tín hữu thành Galati đang làm. Phaolô nói trong câu 11: "Tôi lo cho anh em, e tôi đã làm việc luống công giữa anh em". Ông thấy xấu hổ về cách thức họ đang sinh sống. Họ là những con trai con gái của Đức Chúa Trời đã trưởng thành đủ, nhưng họ đang sống giống như con trẻ thuộc linh bởi cách cố gắng giữ giới luật: "ngày tháng, mùa, năm" (câu 10).
Nói theo cáh thuộc linh, có nhiều Cơ đốc nhân ngày nay mong muốn sống như con trẻ vậy. Thay vì vui hưởng địa vị của mình là “con trai” đã trưởng thành của Đức Chúa Trời, thay vì vui hưởng sự giàu có thuộc linh của mình là “kẻ kế tự”, thay vì theo đuổi mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời đang sẵn có vì sự ban cho của "Đức Thánh Linh" trong tấm lòng của họ, họ lại hài lòng với xu hướng tuân theo lề luật của tôn giáo, vâng giữ các luệt lệ, nghi thức, và điều lệ nhất định nào đó. Buồn thay, họ đang đổi sự sống đầy dẫy Đức Thánh Linh để lấy thứ tôn giáo không có sự sống.
Trong phân đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta sẽ tóm tắt sự dạy của Phaolô theo cách nầy: "Chúng tôi từng là con trẻ, chẳng khác gì hơn hạng nô lệ. Giờ đây, chúng tôi là con trai con gái đủ trưởng thành và là kẻ kế tự của Đức Chúa Trời. Thế thì làm sao chúng tôi sẽ quay trở lại với cuộc sống như con trẻ cho được?"
Chúng ta hãy chú ý hai lẽ thật về chúng ta là ai và chúng ta hiện là ai trong Đấng Christ và kế đó hãy xem xét lời khuyên dạy của vì sứ đồ.
I. QUÁ KHỨ CỦA CHÚNG TA. Chúng ta là con trẻ và là nô lệ (các câu 1-3).
A. Con trẻ sống trong vòng nô lệ y như hạng nô lệ (các câu 1-2).
Phaolô bắt đầu chương 4 bằng cách nói: "Vả, tôi nói rằng người kế tự dầu là chủ của mọi vật, mà đang còn thơ ấu, thì chẳng khác chi kẻ tôi mọi". Vị sứ đồ đang đưa ra một hình ảnh, đang tô vẽ một bức tranh mang tính ẩn dụ các tín đồ Galati có thể nhận ra dễ dàng.
Hãy tưởng tượng một thiếu niên, cậu ta là kẻ kế tự một địa vị lớn lao giàu có kếch xù. Trên nguyên tắc, mọi sự thuộc về cha nó sẽ thuộc về nó. Trên thực tế, cậu ta vẫn là một "đứa trẻ" và chẳng khác gì một "tôi mọi". Người ta sẽ bảo nó lúc nào thì đi ngủ, giờ nào phải thức dậy, ăn cái gì và phải làm gì. Mặc dầu "người kế tự là chủ của mọi vật" cậu ta vẫn còn bị đối xử giống như một tôi mọi. Cậu ta chỉ là một kẻ kế tự de jure, chớ không phải kẻ kế tự defacto. Cậu ta là kẻ kế tự bởi quyền theo luật pháp chớ thực tế chưa phải là kẻ kế tự.
Phaolô nói thêm rằng kẻ kế tự: "phải ở dưới quyền kẻ bảo hộ và kẻ coi giữ, cho đến kỳ người cha đã định". Như chúng ta đã nghiên cứu ở chương 3, các gia đình giàu có thường giao thác phần dạy dỗ và kỷ luật con cái của họ cho hạng tôi mọi có ăn học, ai cũng biết họ là "kẻ bảo hộ và kẻ coi giữ”. Trẻ con hoàn toàn ở dưới uy quyền của họ và không dám làm một việc gì nếu chẳng có phép của họ và không thể đi đâu nếu chẳng có họ đi kèm. Theo một ý nghĩa thực sự, "người kế tự dầu là chủ của mọi vật, mà đang còn thơ ấu" thì chẳng khác chi "kẻ tôi mọi". Thực vậy, người đã sống dưới quyền của một tôi mọi.
Tuy nhiên, "cho đến kỳ người cha đã định" địa vị của đứa trẻ hoàn toàn thay đổi. Người không còn là kẻ kế tự de jure, một kẻ kế tự trên nguyên tắc, mà là một kẻ kế tự de facto, một kẻ kế tự trên thực tế. Người đã tấn tới từ thời kỳ con trẻ đến thời kỳ trưởng thành. Các thiếu niên Do thái được coi là người lớn vào ngày sabát đầu tiên sau ngày sinh nhựt thứ 12. Đây là điểm đánh dấu sự trưởng thành. Người Hy lạp đã tổ chức kỷ niệm thời kỳ trưởng thành ở tuổi 18. Người La mã nhìn biết rằng không phải hết thảy các đứa trẻ đều trưởng thành ở cùng một cấp độ, cho nên họ chọn tuổi trưởng thành nằm giữa 14 và 17. Người Hy lạp sẽ cắt bỏ mái tóc mọc dài suốt thời thơ ấu. Người La mã sẽ thiêu đốt các thứ đồ chơi thời thơ ấu. Phaolô đề cập tới vấn đề nầy trong I Côrinhtô 13.11: "…khi tôi đã thành nhơn bèn bỏ những điều thuộc về con trẻ". Người La mã cũng dành cho kẻ thành nhơn một chiếc áo choàng mới màu trắng. Nghi thức được gọi là toga virilis.
Vì lẽ đó, là một đứa trẻ, "người kế tự dầu là chủ của mọi vật, mà đang còn thơ ấu, thì chẳng khác chi kẻ tôi mọi”, "cho đến kỳ người cha đã định" người nằm lấy địa vị của mình là kẻ kế tự hợp pháp cơ nghiệp của cha mình và sống phần đời còn lại trong sự tự do vinh hiển và là một người con đã trưởng thành.
B. Là những người chưa tin Chúa, chúng ta sống trong vòng nô lệ cho các lề thói của thế gian (câu 3).
Bây giờ, vì sứ đồ đưa ra phần ứng dụng cho minh hoạ của mình. Ông nói: "Cũng như vậy" hay cũng một thể ấy, "chúng ta… khi còn thơ ấu …phải phục dưới các lề thói của thế gian". Do sự biết trước của Đức Chúa Trời, chúng ta từng là “kẻ kế tự” của Ngài dẫu khi chúng ta là con cái bị hư mất và là nô lệ cho tội lỗi. Chúng ta học biết rằng luật pháp và ao ước muốn sống nhơn đức của chúng ta giống như "kẻ bảo hộ và kẻ coi giữ".
Chúng ta bị trói buộc bởi các "lề thói [những việc cơ bản] của thế gian". Chữ lề thói ra từ chữ Hy lạp có ý nói tới thứ hạng hay đẳng cấp với ý nghĩa thứ bậc trên dưới, trước sau. Chữ nầy được dùng để mô tả các âm trong mẫu tự, ABC…, thứ tự của chữ viết.
Phaolô không nói cho chúng ta biết chính xác "các lề thói của thế gian" là những gì!?! Một số học giả Kinh Thánh cho chỗ nầy có ý nói tới các tà linh. Nhiều người khác cho đây là hệ thống chiêm tinh của tà giáo. Tuy nhiên, tôi đồng ý với những ai nói rằng chữ nầy có ý nói tới “các lề thói” tôn giáo của con người, giáo dục cơ bản của dân sự Đức Chúa Trời. J.B. Phillips dịch lề thói nầy là "các nguyên tắc đạo đức cơ bản".
Phaolô cảnh cáo các tín hữu người thành Côlôse: "Hãy giữ chừng, kẻo có ai lấy triết học và lời hư không, theo lời truyền khẩu của loài người, sơ học của thế gian, không theo Đấng Christ, mà bắt anh em phục chăng" (Côlôse 2.8).
Trước khi tôi được cứu, tôi đã sống "phục theo các lề thói của thế gian". Tôi đã cố gắng sống thật nhơn đức. Thậm chí tôi đã sống rất tôn giáo nữa. Nhưng bất luận tôi đã cố gắng khó nhọc ngần nào, tôi không hề đạt tới đích. Tôi giáo, nghi thức, và các việc lành là những lề thói cho thấy họ là con người, họ không bao giờ với tới cấp độ của Đức Chúa Trời được.
Câu chuyện kể về John Wesley thường được người ta thuật lại. Ông là một sinh viên tốt nghiệp đại học Oxford và là một Mục sư của Hội thánh Anh quốc. Ông đã dâng đời sống mình phục vụ Đức Chúa Trời và con người. Ông đã lao động với tù phạm và người nghèo. Ông đã phụ giúp cho trẻ con thiếu đói có bánh ăn áo mặc. Ông đã ngihên cứu Kinh Thánh và dự hết các buổi nhóm thờ phượng ở nhiều nhà thờ. Ông đã bố thí thật rời rộng, đã cầu nguyện, kiêng ăn và sống một đời sống gương mẫu. Chẳng có điều gì làm cho ông thấy thoả lòng. Sau cùng, ông đã đến nước Mỹ rồi lao động giữa vòng người da đỏ, là bộ tộc khi ấy và bây giờ đã sống ở bang Georgia. Ông đã xưng nhận trong tạp chí của mình: "Tôi là người đến nước Mỹ để làm cho nhiều người được biến đổi, song bản thân tôi chưa hề được biến đổi". Sau cùng, ông đã gặp một nhóm tín hữu chân chính đã hướng dẫn ông biết tin cậy hoàn toàn nơi một mình Chúa Jêsus để được cứu rỗi. Ông đã trở thành một nhà cải chánh và là một trong những nhà truyền đạo lỗi lạc nhất trong lịch sử. Khi viết về thời kỳ sớm sủa nầy trong đời sống ông, ông nói: "Tôi đã có đức tin của một tôi tớ, không phải đức tin của một con cái".
II. HIỆN TẠI CỦA CHÚNG TA. Chúng ta là con cái và là kẻ kế tự (các câu 4-7).
A. Đức Chúa Trời sai Con của Ngài đến để biến chúng ta thành hạng con cái (các câu 4-5).
Thứ nhứt, hãy chú ý Đức Chúa Trời đã sai phái Con Ngài vào LÚC NÀO. Phaolô nói: "Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài". Khoảng 2.000 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Chúa Trời ban ra lời hứa của Ngài cho Ápraham. Trong khoảng 1.300 năm, Israel đã vật vã dưới luật pháp của Đức Chúa Trời. Sau cùng, "khi kỳ hạn đã được trọn" hay đúng thời điểm đã đến cho Đức Chúa Trời bày tỏ ra cho thế gian theo phần xác thể, qua Con của Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ.
Có vài yếu tố đánh dấu "kỳ hạn" thời điểm Đức Chúa Trời sai phái Chúa Jêsus vào trong thế gian. Thứ nhứt, Rôma đã chinh phục vùng đất có dân ở thời bấy giờ và đã tạo ra được pax Romana, sự hoà bình của người La mã cung ứng tình trạng ổn định về mặt xã hội. Người La mã cũng xây dựng một hệ thống giao lộ rất tinh vi đã giúp cho Tin lành được truyền bá cách dễ dàng. Thứ hai, nhờ Alexander Đại Đế, văn hoá và ngôn ngữ Hy lạp đã thống nhất thế giới. Tin lành có thể được truyền bá và Tân Ước đã được viết ra bằng một thứ ngôn ngữ. Thứ ba, qua cuộc phu tù cho người Babylôn, người Do thái đã quên hẳn sự thờ lạy hình tượng một lần đủ cả. Luật pháp đã sửa soạn nhiều người trong số họ biết đến Đấng Mêsi của mình. Họ đa xây dựng một hệ thống nhà hội đóng vai trò khuôn mẫu nền tảng cho các Hội thánh và là điểm khởi đầu cho công cuộc truyền giáo. Thời điểm của Đức Chúa Trời là trọn vẹn!
Thứ hai,hãy chú ý Đức Chúa Trời sai phái Con Ngài đến BẰNG CÁCH NÀO. Chúa Jêsus đã được "sai… bởi một người nữ sanh ra". Ngài là Con của Đức Chúa Trời nhưng cũng là con của mẹ Ngài. Ngài có nhân tính cũng như có thần tính. Ngài là Người-Trời. Không những Chúa Jêsus "bởi một người nữ sanh ra" mà Ngài còn "sanh ra dưới luật pháp" nữa. Ngài chào đời cho một người mẹ Do thái dưới luật pháp của người Do thái.
Nhà truyền đạo lỗi lạc Charles Spurgeon nhìn vào tầm quan trọng của sựhoá thân thành nhục thể của Chúa Jêsus.
Đấng Vô hạn, lại là một con trẻ.
Đấng đời đời, lại sanh ra bởi một người nữ.
Đấng Toàn Năng, lại bám vào ngực của một người đờn bà.
Nâng đỡ cả vũ trụ, mà lại cần đôi tay của người mẹ ẳm bồng.
Vua của các thiên sứ, mà lại được coi là con của Giô-sép.
Đấng kế tự muôn vật, mà lại là con trai bị xem khinh của người thợ mộc.
Suốt cuộc đời của Ngài, Ngài đã giữ trọn vẹn luật pháp của Môise. Ngài phán trong Mathiơ 17: "Đừng tưởng ta đến để hủy phá luật pháp hay lời tiên tri. Ta đến không phải để hủy phá mà để làm cho trọn". Chúa Jêsus là Con thật thiêng liêng của Đức Chúa Trời, là Con người có đầy đủ nhân tính, và là Đấng tuân giữ trọn vẹn cả thảy luật pháp của Đức Chúa Trời.
Rôma 8.3-4 chép: "Vì điều chi luật pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho luật pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt, hầu cho sự công bình mà luật pháp buộc phải làm được trọn trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh".
Thứ ba, hãy chú ý lý do TẠI SAO Đức Chúa Trời lại sai Con của Ngài đến!?! Phaolô nói trong câu 5, rằng Chúa Jêsus đã đến "để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp". "Chuộc" có nghĩa là "mua lấy" hay "mua lại". Từ ngữ nầy được sử dụng nói tới hạng nô lệ sự tự do của họ đã được mua lấy rồi. Chúa Jêsus đã trả giá cao tội lỗi của chúng ta bằng sự hy sinh đổ huyết ra trên thập tự giá. “Chuộc” chúng ta không những là mục đích của Đức Chúa Trời, mà chúng ta còn được "làm con nuôi Ngài" nữa. "Nhận làm con nuôi" tất nhiên có ý nói tới việc ban cho địa vị con cái cho người nào không phải là con ruột của ai đó. Trong thời của Phaolô, thường thì một người giàu có không có con ruột sẽ buông tha cho một nô lệ trẻ tuổi rồi nhận người đó làm con nuôi như con ruột của mình. Đấy là điều mà Đức Chúa Trời đã làm qua Đấng Christ. Chúng ta là hạng nô lệ cho tội lỗi và luật pháp. Đức Chúa Trời đã trả giá cho sự tự do của chúng ta qua huyết đổ ra của Chúa Jêsus rồi nhận chúng ta làm con nuôi đưa vào trong gia đình của Ngài. Ngài đã biến đổi chúng ta từ hạng nô lệ thành ra hạng con cái.
John Stott viết: "Cho nên thần tính của Đấng Christ, nhân tính của Đấng Christ và sự công bình của Đấng Christ đặc biệt khiến Ngài đủ tư cách làm Đấng cứu chuộc của con người. Nếu Ngài không phải là con người, Ngài không thể chuộc được con người. Nếu Ngài không phải là một người công bình, Ngài không thể chuộc được kẻ không công bình. Và nếu Ngài không phải là Con Đức Chúa Trời, Ngài không thể chuộc được con người cho Đức Chúa Trời hay khiến họ thành ra con cái của Đức Chúa Trời được".
B. Đức Chúa Trời sai Thánh Linh Ngài vì chúng ta là con cái (các câu 6-7).
Hãy chú ý hai lần “sai phái”. Thứ nhứt, Đức Chúa Trời sai Con Ngài vào trong thế gian. Thứ hai, Ngài sai "Thánh Linh của Con Ngài" ngự vào lòng chúng ta. Chúa Jêsus đã khiến cho chúng ta thành ra con trai con gái của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh khẳng định với chúng ta rằng chúng ta quả thực là con trai con gái của Đức Chúa Trời. Phaolô nói "Lại vì anh em là con" nên "Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta". Chúng ta có sự hiểu biết về địa vị làm con nhờ Lời của Đức Chúa Trời, tiếp nhận địa vị con cái qua Con của Đức Chúa Trời và sự khẳng định địa vị con cái nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Nhiều người trong hội chúng của chúng ta đều có con nuôi. Quí vị đã đem những đứa trẻ nhỏ vào trong đời sống của mình và đã cung ứng cho chúng một tình yêu thương, sự tiếp nhận, một ngôi nhà, một gia đình và một tương lai. Quí vị đã cung ứng cho chúng mọi sự mà quí vị có thể cung ứng. Việc duy nhứt quí vị không thể cung ứng cho chúng là một bổn tánh mới. Khi Đức Chúa Trời cho chúng ta làm con nuôi trong gia đình của Ngài, không những Ngài cung cấp cho mỗi nhu cần của chúng ta, mà Ngài còn ban cho chúng ta một bổn tánh mới bằng cách sai Thánh Linh Ngài ngự vào lòng của chúng ta!
Khi Đức Thánh Linh ngự vào lòng chúng ta, Ngài kêu lên: "Aba Cha!" Rôma 8.14-16 tỏ ra cùng một việc như thế: "Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời. Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời".
"Aba"
là một từ ngữ nhẹ nhàng nói tới "Cha". Đây là một từ nMàu Văn bảngữ rất quen thuộc. Từ nầy phản ảnh cách nói của một đứa trẻ đang rúc vào hông của người cha. Chữ nầy có ý nói tới "Bố" hay "Ba". J.B. Phillips dịch chữ nầy: "Cha, cha yêu dấu ơi".
Chúng ta là gia đình của Đức Chúa Trời. Bởi đức tin chúng ta là con trai con gái của Đức Chúa Trời. Hãy lật Kinh Thánh Tân Ước sang Êphêsô 1.3-7. Ở đây cho thấy chúng ta là ai, là con cái phước hạnh, được chọn, thánh khiết, đã được định trước, được tiêp nhận, được chuộc, được tha tội của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Vấn đề ấy là đôi lúc chúng ta có khuynh hướng quên mất chúng ta là ai. Đấy là lý do tại sao Đức Chúa Trời đã sai phái Đức Thánh Linh. Hãy xem qua các câu 13-14.
Đức Chúa Trời đã bảo đảm địa vị làm con của chúng ta bằng cách sai phái Con của Ngài. Đức Chúa Trời bảo đảm địa vị làm con của chúng ta bằng cách sai phái Thánh Linh của Ngài. Con của Ngài mang lấy thân phận địa vị làm con của chúng ta. Thánh Linh của Ngài cung ứng cho chúng ta kinh nghiệm của địa vị làm con đó.
Trong câu 7, Phaolô nhắc cho chúng ta nhớ: "Dường ấy, ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con". Trong câu 6 ông nói: "Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh…". Cho phép tôi đưa ra một lẽ thật tuyệt đối rõ ràng: CHÚNG TA CÓ THÁNH LINH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÌ CHÚNG TA LÀ CON CÁI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI. Chúng ta không nhận lãnh Đức Thánh Linh bằng cách đọc thuộc lòng một công thức nào đó, chu toàn một điều kiện nào đó hay khao khát một kinh nghiệm cao độ nào đó. Đức Chúa Trời không có người con nào mà chẳng có Thánh Linh của Ngài.
Đức Chúa Trời bảo đảm với chúng ta về mối quan hệ của chúng ta với Ngài, không phải bởi một kinh nghiệm đặc biệt đầy cảm xúc nào đó, mà bởi sự làm chứng thầm lặng ở bên trong của Đức Thánh Linh khi chúng ta tìm kiếm mặt Ngài trong sự cầu nguyện và sự thờ phượng.
Trong câu 7, Phaolô nói thêm như sau: "…và nếu [quí vị là] con, thì [quí vị cũng là] kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời". Vì chúng ta được làm con nuôi, chúng ta là kẻ đồng kế tự với Chúa Jêsus. Rôma 8.17 chép: "Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài".
Trước khi chúng ta tiếp tục, hãy gạch dưới cụm từ chìa khoá trong câu 7: "bởi ơn” (bởi Christ, trong bản Kinh Thánh Anh ngữ). Chúng ta là những con trai con gái nuôi của Đức Chúa Trời, chúng ta là kẻ đồng kế tự sự giàu có vô hạn của Cha chúng ta không phải vì chúng ta sống nhơn đức, không phải vì công trạng nào xứng đáng nơi phần của chúng ta, không phải qua bất kỳ một sự thành tựu nào nơi phần của chúng ta, mà "bởi ơn” (bởi Christ). Ấy là bởi ân điển của Đức Chúa Trời, bởi ơn của Ngài ban cho kẻ không xứng đáng nên Ngài đã sai chính Con Ngài đến chịu chết thay cho chúng ta và Thánh Linh của Ngài đến sống trong chúng ta.
III. NGUYÊN TẮC CỦA CHÚNG TA. Hãy nhớ chúng ta là ai (các câu 8-11).
A. Chúng ta thường hầu việc hình tượng (câu 8).
Kế đó, vị sứ đồ nói: "Xưa kia, anh em chẳng biết Đức Chúa Trời chi hết, thì làm tôi các thần vốn không phải là thần". Có bản dịch Kinh Thánh Anh ngữ ghi như sau: "Anh em là nô lệ cho các thần không có thực".
"Các thần không có thực" đó chính là hình tượng. Người dân Ngoại đã từng thờ lạy các hình tượng bằng đá và bằng cây. Người Do thái đã thờ lạy các truyền thống của riêng họ. Quí vị và tôi đã thờ lạy nơi bàn thờ bản ngã. Trước khi chúng ta được cứu, chúng ta đã "chết trong quá phạm và tội ác mình" và đã sống chỉ để làm thoả mãn bản ngã mình mà thôi" (Êphêsô 2.1).
B. Chúng ta không bao giờ xây lại với một đời sống làm tôi mọi nữa (các câu 9-11).
Phaolô nói trong câu 9: "Nhưng hiện nay anh em biết Đức Chúa Trời lại được Đức Chúa Trời biết đến nữa", hiện nay chúng ta không còn là tôi mọi nữa, bèn là con cái: "sao còn trở hướng về lề thói hèn yếu nghèo nàn đó mà suy phục nữa ư?"
Hãy nhớ "các lề thói" có ý nói tới điều cơ bản, bước đầu ABC của tôn giáo. Người thành Galati đã kinh nghiệm sự tự do thuộc linh trong Đấng Christ, nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi một số giáo sư người Do thái dạy họ phải tuân giữ luật lệ, nội quy, nghi thức của Do thái giáo. Phaolô lưu ý trong câu 10: "Anh em còn giữ ngày, tháng, mùa, năm ư?" Giống như vị sứ đồ đang nói: "Đức tin của anh em đã xuống thấp thành xu hướng thiên về với luật pháp khô khan, chết tiệt. Sự tự do và niềm vui mừng của sự mật thiết mà con cái có với cha của chúng ở đâu? Anh em đã làm cho mối quan hệ của mình với Đức Chúa Trời rút lại thành việc tuân giữ một số điều luật mà thôi".
Tuần lễ nầy, vợ tôi có việc ra khỏi thành phố mấy ngày. Tôi quyết định đề ra một số luật lệ thông thường trong gia đình và có một số cuộc vui đùa với mấy đứa con gái của tôi. Tôi đưa chúng đến trường rồi đến trưa thì đón chúng về. Chúng tôi đi ra ngoài ăn trưa, chất đống mấy cái đĩa trong chậu rồi đi ngũ trưa. Một vị chấp sự đến làm rộn phá giấc ngủ của chúng tôi! Chúng tôi đã vui đùa. Chúng tôi có thì giờ ở tiêng tư với nhau. Chúng tôi cùng nhau tận hưởng một thời gian thật là đặc biệt. Chúng tôi rất vui sướng khi mẹ chúng về tới nhà (và các thứ luật lệ quay trở lại có hiệu lực như cũ), nhưng chúng tôi đã vui hưởng một thời gian bố/con với nhau thật là đặc biệt.
Đấy là cách Đức Chúa Trời muốn chúng ta gắn bó với Ngài. Với sự vùa giúp của Đức Thánh Linh chúng ta cần phải cầu nguyện "Aba, Cha". Chúng ta cần phải cầu nguyện với Ngài luôn luôn, với sự nhìn biết Ngài đang nghe và chăm sóc chúng ta trong từng nhu cần của chúng ta. Đức Chúa Trời mong chúng ta VUI HƯỞNG mối tương giao với Ngài, chớ không phải CHỊU ĐỰNG mối tương giao đó!
Một lý do cho thấy có nhiều Cơ đốc nhân dường như quá kiệt quệ và nhiều Hội thánh dường như quá nguội lạnh, ấy là đức tin của chúng ta không còn sống động nữa. Chúng ta quá bận rộn lo tuân giữ "ngày tháng mùa năm", lo tuân giữ truyền thống, diện mạo bề ngoài của mình, chúng ta đã quên đi niềm vui của cuộc hành trình với Chúa Jêsus.
Một cô bé kia từ lớp trường Chúa nhựt trở về nhà, nó học ở đó câu: "Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời". Nó hỏi mẹ nó, khi lặp lại câu Kinh Thánh ấy, câu Kinh Thánh muốn nói điều gì!?! Mẹ nó đáp: "Câu Kinh Thánh ấy nói rằng khi con sống tử tế, hiền lành, biết suy nghĩ và vâng lời, con đang để cho sự sàng của Đấng Christ chiêu sáng cuộc đời của con trước mặt hết thảy những ai quen biết con". Qua Chúa nhựt tới trong lớp Trường Chúa Nhật, bé gái ấy có một cuộc cão lộn ầm ĩ với một học viên khác rồi tạo ra một sự náo động. Giáo viên đứng lớp phải đi tìm mẹ nó. Mẹ nó có lòng quan tâm, bà chạy tới lớp học rồi nói: "Sweetie, con không nhớ về việc để cho sự sáng của con soi rọi cho Chúa trước mặt loài người sao?" Đứa bé gái ấy thổn thưc: "Mẹ ơi, con đã để lộ cái tôi của mình ra rồi". Nhiều người trong chúng ta đã làm y như thế. Trong mối giao thông của chúng ta với Đấng Christ, sự sáng của chúng ta đã chiếu ra.
Sau cùng, Phaolô nói với người Galati: "Tôi lo cho anh em, e tôi đã làm việc luống công giữa anh em". Đúng là một lời phê phán đáng buồn làm sao! Là một Mục sư, tôi hiểu mọi cảm xúc của Phaolô. Ông đã cầu thay cho họ, đã giảng đạo cho họ nghe và đã yêu thương họ với cả mạng sống của mình, nhưng ông lại sợ rằng họ đã quên mất mục tiêu rồi.
Có nhớ câu chuyện nói về Đứa con hoang đàng trong Luca 15 không? Khi nó tỉnh ngộ, nó bèn trở về với cha mình rồi nói: "Con không xứng đáng được gọi là con của cha nữa. Xin kể con là một tôi tớ của cha vậy" hay là hàng nô lệ. Thật là dại dột làm sao khi có ai đó nói với Đức Chúa Trời như vầy: "Dầu Ngài đã kể tôi là con, tôi muốn làm nô lệ của Ngài hơn". Khi nói quí vị không xứng đáng làm con trai con gái của Đức Chúa Trời là một việc, còn nói quí vị không ao ước điều đó là một việc hoàn toàn khác.
Cho phép tôi cung ứng coh quí vị ba chìa khoá giữ quí vị không quay trở lại với tình trạng làm tôi mọi.
Thứ nhứt, hãy để thì giờ ra với Ngôi Lời mỗi ngày. Tôi biết nói thì dễ lắm, nhưng làm mới thực là khó. Lời Chúa là chiếc la bàn sẽ nhắc cho quí vị nhớ mỗi ngày quí vị là ai trong Đấng Christ. Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ sử dụng Lời Đức Chúa Trời để khẳng định với quí vị địa vị của quí vị chính là Con Cái của Đức Chúa Trời.
Thứ hai, hãy cầu nguyện không thôi. I Têsalônica 5.17 chép: "Cầu nguyện không thôi". Hãy đem mọi sự đến gặp Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện. Hãy thưa với Ngài cách liên tục về mọi sự trong đời sống của quí vị.
Thứ ba, hãy tìm kiếm Ngài trong sự thờ phượng. Thờ phượng là xem trọng Đức Chúa Trời. Âm nhạc làm cho buổi thờ phượng được nâng cao thêm lên, nhưng âm nhạc không phải là sự thờ phượng. Thờ phượng là suy gẫm luôn Đức Chúa Trời là ai và Ngài đã làm gì. Sự giàu có của ân điển Ngài thật là lạ lùng. Cần phải ghi nhớ luôn chúng ta sống như thế nào và ngợi khen Đức Chúa Trời vì mọi điều Ngài đang làm cho chúng ta.
John Newton chỉ là một đứa trẻ mất mẹ khi ông chỉ mới có 7 tuổi. Ông đi biển lúc được 11 tuổi và không bao lâu sau đó đã dính dáng vào "những sự tàn nhẫn khôn tả xiết trong việc buôn bán nô lệ người châu Phi". Khi đến tuổi thành nhân, ông đã trở thành một con người bẩn thỉu, đáng khinh. Ở tuổi 23, vào ngày 10 tháng Ba năm 1748, chiếc tàu mà ông làm thuyền trưởng gặp nguy hiểm trong một trận bão rất khủng khiếp. Ông kêu la với Đức Chúa Trời xin được thương xót và đã nhận được sự thương xót đó. Ông thực sự đã được biến đổi. Ông trở về nhà rồi sử dụng phần đời còn lại của mình ngợi khen Đức Chúa Trời vì đã làm cho ông phải thay đổi. Ông không bao giờ quên mình đã sống như thế nào. Ông đã cho dựng một tấm bảng ở trước cửa nhà mình ghi câu Kinh Thánh Phục truyền luật lệ ký 15.15: "Hãy nhớ rằng mình đã làm tôi mọi trong xứ Ê-díp-tô, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã chuộc ngươi; bởi cớ ấy, ngày nay ta truyền cho ngươi làm các điều nầy". Có lẽ John Newton là biết rõ nhất về câu Kinh Thánh nầy đã được hàng triệu triệu tín đồ hát lên trải 300 năm qua.
Ân điển cứu rỗi sâu rộng lạ lùng,
Chuộc tôi đứa gian ác hung.
Trước tôi đui, nay sáng do Chiên Con,
Ngày xưa mất, hôm nay còn (TC 307).

Galati 3.23-29: "Con đường đến với đức tin"


Tự do thực – Galati
Con đường đến với đức tin
Galati 3.23-29
Có nhiều con đường chồng chéo trên cảnh quan cuộc sống của chúng ta. Chúng cung ứng đường lối cho công việc làm ăn, khoái lạc và con đường quay trở về nhà. Con đường tôi thích nhất là con đường cách nhà chừng vài dặm sau một chuyến đi thật dài.
Người La mã đã đúc câu phương ngôn: "Mọi con đường đều dẫn đến La mã" trên đồng tiền của họ. Trong thời buổi đế quốc của họ, đây là một câu nói thực sự tuyệt đối. Quí vị có biết toàn bộ chiều dài của những siêu xa lộ nối liền các bang của nước Mỹ là 44.328 dặm không? Hãy so sánh với 49.000 dặm đường mà Đế Quốc La Mã đã xây dựng xem!
Kinh Thánh được ghi ra trong đó với nhiều con đường lắm. Có con đường trong đồng vắng từ đó Đức Chúa Trời đã dẫn dân Israel vào Đất Hứa. Có con đường dẫn từ thành Giê-ri-cô xuống mà các môn đồ đã bước đi trên đó. Có con đường dẫn tới thành Đa-mách, ở đó Saulơ đã gặp Chúa. Tất nhiên, có via dolarosa "con đường thương khó" từ đó Chúa Jêsus đã đi bộ vác thập tự giá mình.
Phải, chúng ta đã bước đi trên nhiều con đường trong đời sống của mình, con đường học vấn, con đường sự nghiệp, con đường hôn nhân, con đường làm cha mẹ và con đường nghỉ hưu cho một vài người. Tuy nhiên, con đường quan trọng nhất mà bất cứ ai trong chúng ta đã từng bước đi trên đó là CON ĐƯỜNG ĐỨC TIN, vì đó là con đường đức tin dẫn chúng ta về quê hương trong cõi đời đời.
Con đường đức tin bắt đầu với Cựu Ước rồi dẫn chúng ta qua Tân Ước. Nó dẫn chúng ta qua luật pháp đến với lời hứa của đức tin. Một số người trong chúng ta vẫn cứ sống theo Cựu Ước, ở dưới luật pháp của Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy bị xét đoán và bị gò bó. Nhiều người khác gắng sức bỏ qua Cựu Ước rồi đến với Đấng Christ. Trong phân đoạn Kinh Thánh, chúng ta thấy cả hai chặng của Con Đường Đức Tin. Chúng ta thấy chúng ta là ai đương ở dưới luật pháp và chúng ta là ai giờ đây đương ở trong Đấng Christ.
I. Chúng ta là ai đương ở dưới luật pháp (các câu 23-24).
A. Chúng ta là hạng tù nhân (câu 23).
Sứ đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng "trước khi đức tin chưa đến", trước khi chúng ta được cứu bởi tin theo Chúa Jêsus, "chúng ta bị nhốt dưới sự canh giữ của luật pháp". Điều nầy rất giống với những gì chúng ta đã nhìn thấy trong tuần qua ở câu 22: "Kinh Thánh nhốt hết thảy mọi sự dưới tội lỗi".
"Nhốt dưới sự canh giữ" có nghĩa là "được bảo hộ bởi lính canh". Chữ "canh giữ" thứ hai trong câu nầy có nghĩa là bị giam hãm, bị vây bọc bốn bên giống như một con cá ở trong lưới vậy. Vì lẽ đó mục đích luật pháp Cựu Ước của Đức Chúa Trời là nhốt tù chúng ta.
Tuần lễ qua khi chúng ta xem xét chữ "nhốt" trong câu 22, tôi đã bắt lấy một thanh niên trẻ tuổi bằng một bộ còng tay. Anh ta đã cố và gắng hết sức bằng sức riêng mình hầu được tự do nhưng không sao thoát ra được. Khi tôi hỏi anh ta có muốn tôi sử dụng chìa khoá để thả anh ta ra hay không, anh ta sốt sắng đáp: “Thưa muốn ạ!”
Hãy tưởng tượng mình đang bị "nhốt dưới sự canh giữ" và bị "nhốt" xem. Hãy hình dung mình đang bị tù xem. Hãy tưởng tượng đang sống hết năm nầy sang năm khác cuộc đời của quí vị trong một xà lim nhỏ bị khoá trái xem. Nếu tôi phải sống giống như thế thì mọi tư tưởng của tôi phải trở thành nỗi khát khao muốn được tự do. Mỗi tối tôi mơ tới những gì tôi sẽ làm một khi tôi thực được tự do.
Một vị Mục sư thuật lại câu chuyện nầy: "Ăn trưa ở một quán cà phê nhỏ, tôi nhìn thấy một con chim sẻ đang nhảy từng bước ngang qua cánh cửa rồi mổ từng miếng bánh vụn ở gần bàn tôi. Khi những mẫu bánh vụn hết rồi, con chim sẻ nhảy qua rìa cửa sổ, giang rộng đôi cánh, và bay đi. Một cú bay ngắn thôi. Nó chạm mạnh vào ô kính cánh cửa sổ rồi ngã xuống sàn nhà. Con chim mau chóng hồi phục rồi thử bay trở lại. Chạm nữa. Và làm lại. Chạm nữa. Tôi đứng dậy và cố gắng suỵt cho con chim bay ra cánh cửa cái, thế nhưng khi tôi càng chịu khó để đuổi nó đi, thì nó cứ ném mình vào rìa khung cửa sổ. Tôi dùng tay khều nó. Rồi đẩy nó từ từ theo bờ rìa cửa, nó va liên hồi vào khung kính. Sau cùng, tôi bước tới và nhẹ nhàng bắt lấy con chim, luồn mấy ngón tay quanh đôi cánh và thân của nó. Nó chẳng nặng bao nhiêu cả. Tôi nghĩ con chim ấy vô quyền và nó cảm biết mình yếu đuối là dường nào. Ra tới cửa cái, tôi thả nó ra, và con chim giang cánh bay đi. Giống như tôi đã làm với con chim sẻ, Đức Chúa Trời bắt lấy chúng ta từ chỗ phu tù để buông tha chúng ta mà thôi".
"Trước khi đức tin chưa đến", trước khi tôi được cứu bởi ân điển nhờ đức tin, tôi đã vật vã dưới luật pháp của Đức Chúa Trời. Tôi đã cố gắng để trở thành một người nhơn đức. Tôi đi nhà thờ mỗi Chúa nhựt. Tôi cố gắng cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Bất luận tôi khó nhọc dường nào, tôi không thể sống nhơn đức được. Tôi không thể cầu nguyện hay hiểu được Kinh Thánh. Tôi thất bại không làm được các việc lành mà tôi muốn làm và luôn luôn làm những việc xấu xa! Tôi khao khát muốn được tự do. Sau cùng tôi nhận biết tôi không thể lường được các tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời theo sức riêng mình. Tôi không thể đạt được một mối quan hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời, tôi chỉ phải tin thôi để được hoà thuận lại với Ngài.
Tôi là một tù nhân có lòng khao khát muốn được tự do. Nguyện quí vị có thể cảm nhận giống như một tù nhân hôm nay. Nguyện quí vị nhìn biết rằng quí vị càng cố gắng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời thì quí vị sẽ càng thất bại thêm. Quí vị không thích phương thức quí vị đang sinh sống đây. Quí vị không thích hạng người mà quí vị phải trở thành. Đức Chúa Trời vốn hiểu rõ điều đó. Luật pháp của Ngài đã biến quí vị thành một tù nhân và Ngài đã đặt sự khát khao muốn được tự do đó ở trong tấm lòng của quí vị, đó là sự tự do thật. Có những tin tức tốt lành đây. Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 8.36: "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do".
Hãy chú ý dòng thời gian ở đây. Ấy là "trước khi đức tin chưa đến" thì chúng ta là hạng tù nhân. Nhưng chúng ta bị: "nhốt dưới sự canh giữ của luật pháp mà chờ đức tin phải bày ra". Nếu quí vị đã được cứu, đức tin đã được tỏ ra cho quí vị rồi!
B. Chúng ta là con cái (các câu 24-25).
Trong câu 24, Phaolô cung ứng cho chúng ta một hình ảnh thứ nhì. Ông nói rằng luật pháp cũng là "thầy giáo" hay "người canh giữ" của chúng ta. Bản Kinh Thánh KJV dùng chữ "schoolmaster" (thầy giáo) không đúng ý cho lắm. Từ Hy lạp ở đây có ý nói tới "một người canh giữ bọn trẻ".
Trong xã hội Hy lạp của người thành Galati, hầu hết các trẻ thiếu niên không bị bố mẹ chúng kỷ luật mà bị các thầy giáo hay người có bổn phận canh giữ chúng. Người nầy thường là một nô lệ có ăn học đàng hoàng. Người nầy là một người biết chấp hành kỷ luật. Người nầy là một người giám thị đi đến trường với đứa trẻ và canh chừng cách cư xử của nó. Khi đứa trẻ không vâng lời, “thầy giáo” sẽ đánh đòn nó, thường là nghiêm khắc lắm. Những đứa trẻ niên thiếu thường xem khinh thầy giáo của chúng, nhưng có một số biết yêu thương họ.
Phaolô sử dụng phép loại suy nầy với những người Côrinhtô chưa trưởng thành ở I Côrinhtô 4.15: "Bởi chưng, dẫu anh em có một vạn thầy giáo trong Đấng Christ, nhưng chẳng có nhiều cha". Nói cách khác: "Anh em có nhiều người kỷ luật anh em, còn tôi muốn có một người cha yêu thương anh em". Về sau trong câu 21, ông hỏi: "Anh em muốn điều gì hơn: muốn tôi cầm roi mà đến cùng anh em, hay là lấy tình yêu thương và ý nhu mì?"
Nếu trong các câu 22-23, luật pháp được tiêu biểu bằng một bộ còng tay đang trói buộc chúng ta, luật pháp được tiêu biểu trong câu 24 là một cây roi đánh chúng ta khi chúng ta sống bất tuân.
Trong phương thức nào thì luật pháp giống như một quan cai ngục hay một thầy giáo trông chừng đứa trẻ? Luật pháp tỏ ra ý chỉ của Đức Chúa Trời. Nó cho chúng ta biết điều chi phải làm theo và điều chi không nên làm. Luật pháp cảnh cáo chúng ta về những hình phạt của sự bất tuân. Nó chỉ ra rõ ràng rằng hết thảy chúng ta đều đã bất tuân. Luật pháp đã khiến cho hết thảy chúng ta đều "ở dưới luật pháp" (câu 22). Hết thảy chúng ta đều bị "nhốt dưới sự canh giữ của luật pháp" (câu 23). Bởi bổn tánh và lối sống của chúng ta, hết thảy chúng ta đều ở "dưới sự rủa sả" (câu 10) vì chúng ta không thể tuân giữ luật pháp. Chúng ta không thể thoát ra khỏi sự rủa sả ấy. Nó trói buộc chúng ta và đánh đập chúng ta.
Tại sao chứ? Câu 24 cho thấy câu trả lời là: "dẫn chúng ta đến với Đấng Christ, hầu cho chúng ta bởi đức tin mà được xưng công bình". Tôi đã nhìn thấy có nhiều người đang vật vã với Đức Chúa Trời. Họ cố gắng làm đẹp lòng Ngài. Họ đang cố gắng sống nhơn đức. Tuy nhiên, họ luôn luôn thất bại. Sau một thời gian, có người chịu thua và làm bất cứ điều chi họ muốn. Họ nhìn biết họ không thể đạt được tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, thật là khó đạt tới các tiêu chuẩn ấy vì vậy họ đã thôi không cố gắng nữa. Sau cùng, khi họ hiểu rõ sự thực Chúa Jêsus đã chịu chết vì mọi tội lỗi của họ, rằng Đức Chúa Trời muốn tha thứ cho họ và thanh tẩy họ, rằng họ không phải làm chi hết chỉ tin mà thôi, "các tin tức tốt lành" dường như quá tốt không thể là thành thực cho được!
Có thể đó chính là quí vị. Quí vị đã gắng sức làm đẹp lòng Đức Chúa Trời nhưng quí vị đã thất bại. Quí vị đã cố gắng sống tôn giáo nhưng trong tấm lòng của quí vị, quí vị biết rõ mình là kẻ giả hình, một kẻ lừa đảo. Lời của Đức Chúa Trời cho quí vị hôm nay là thôi không gắng sức nữa mà hãy tin cậy. Galati 2.16 chép rằng chúng ta biết rõ "rằng người ta được xưng công bình [làm hoà lại với Đức Chúa Trời], chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ".
Tôi thích cách Catherine Booth giải thích vấn đề nầy: "Những gì luật pháp tìm cách làm bởi một lực kềm chế từ bên ngoài, tin lành thực thi bởi một lực cảm thúc từ bên trong".
II. Chúng ta là ai giờ đây trong Đấng Christ (các câu 25-29).
Chúng ta là ai khi ấy rất khác biệt với chúng ta là ai trong lúc bây giờ. Chúng ta là hạng tù nhân trong gông cùm của luật pháp. Chúng ta là con cái ở dưới phần kỷ luật nghiêm ngặt của “thầy giáo” luật pháp. Giờ đây mọi sự đà thay đổi.
Hãy khoanh tròn một chữ quan trọng ở phần đầu của câu 25, hãy khoanh tròn chữ "song". Có bản dịch ghi "Nhưng bây giờ". "Sau khi đức tin đã đến…". Phaolô nói. Bây giờ chúng ta đã được cứu bởi đức tin, sau khi chúng ta được sanh lại, "…chúng ta không còn phục dưới thầy giáo ấy nữa". Chúng ta không còn "ở dưới luật pháp" nhưng chúng ta đang "ở trong Đấng Christ".
Bốn câu sau cùng nầy của chương ba thật là phong phú! Chúng đầy dẫy với Đức Chúa Jêsus Christ và tình yêu thương của Ngài dành cho chúng ta. Chúng ta hãy chú ý ba lẽ thật nói về tất cả các tín đồ trong mấy câu nầy.
A. Trong Đấng Christ chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời (các câu 26-27).
Phaolô nói với người thành Galati và với chúng ta: "Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Jêsus Christ, nên hết thảy đều là con trai của Đức Chúa Trời". Đức Chúa Trời không còn là quan án của chúng ta nữa; Ngài là Cha của chúng ta. Chúng ta không còn là hạng tù nhân đang chờ đợi sự phán quyết sau cùng bản án của chúng ta, cũng không phải là con cái ở dưới án phạt nghiêm khắc của một người chuyên canh chừng nữa. Chúng ta là con trai con gái đang lớn lên của Đức Chúa Trời, là kẻ kế tự ân điển Ngài với hết thảy các đặc ân của hoàng gia.
"Hết thảy" có ý nói tới từng người tín đồ bất kể chủng tộc, phái tính, tuổi tác hay giai cấp. Chúng ta trở thành con trai con gái của Đức Chúa Trời, không phải qua những thành tựu của chúng ta, mà bất chấp chúng. Chúng ta được sanh vào, được làm con nuôi trong gia đình của Đức Chúa Trời chỉ "bởi tin Đức Chúa Jêsus Christ" mà thôi. Chính mình Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 14.6: "Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống. Không ai được đến cùng Cha mà chẳng bởi ta".
Tuần qua chúng tôi phát hiện một trong những yếu tố có cần trong nhà chúng tôi là lò điện. Tôi đi ra cửa hàng bán thiết bị gia dụng và mua một cái lò mới. Vì tôi không muốn bị sốc, tôi bước tới chỗ có bảng công tắc rồi tắt điện đi. Khi nhà chúng tôi vừa xây xong, người thợ điện không dành thì giờ đánh dấu các mạch nối. Cách duy nhứt tôi có thể biết chắc nguồn điện đã tắt cho bếp điện của chúng tôi là mọi núm vặn đều chỉ vào chữ “off”. Quí vị biết rõ điều chi đã xảy ra, mỗi ổ khoá và thiết bị ở trong nhà đều bị đóng lại hết. Sau đó, tôi đổ một ít cà phê với nước vào bình pha cà phê rồi vặn nút “on” lên. Mười lăm phút sau không còn có chút cà phê nào nữa. Tôi nhận ra mình đã không vặn một trong những núm xay cà phê lên. Chỉ khi có nguồn điện chạy vào máy xay cà phê thì nó mới hoạt động. Không có điện thì cái máy nằm ụ đó vô dụng mà thôi. Cũng một thể ấy, người nào không kết nối với Con Đức Chúa Trời thì không nối kết với Đức Chúa Cha. Chẳng có năng lực thuộc linh nào trong đời sống của người ấy. Đức Chúa Trời không có con trai con gái nào chưa đồng hoá "bởi đức tin" nơi Con của Ngài là "Đức Chúa Jêsus Christ".
Phaolô nói trong câu 27: "Vả, anh em thảy đều chịu phép báp tem trong Đấng Christ, đều mặc lấy Đấng Christ vậy". Trước tiên, chúng ta hãy học biết những điều mà câu nầy không nói tới. Câu nầy không có ý nói rằng một người phải chịu phép báptêm bằng nước thì mới được cứu.
John MacArthur viết: "Mặc dù phép báptêm bằng nước là một hành động bề ngoài xưng nhận công khai đức tin của mình nơi Đức Chúa Jêsus Christ, ở đây Phaolô không nói tới phép báptêm đó. Không một chỗ nào Kinh Thánh dạy chịu phép báptêm như thế thì mới được cứu đâu, đặc biệt không phải nơi người thành Galati, ở đây trọng tâm sứ điệp là được cứu bởi chỉ duy đức tin mà thôi, hơn bao nhiêu điều khác”.
Cụm từ "phép báptêm" có nghĩa là "dìm xuống hay nhúng xuống nước". Khi chúng ta được cứu, chúng ta bị nhúng hẳn trong Chúa Jêsus về mặt thuộc linh. Chúng ta bị đặt "trong Đấng Christ". Chúng ta được kết nối đời đời với Ngài.
I Côrinhtô 12.13 chép: "Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng tôi đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa" (đối chiếu Rôma 6.3-5). I Côrinhtô 6.17 mang cùng một ý tưởng: "Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài".
MacArthur nói thêm: "Đây là một sự mầu nhiệm lớn lắm, lý trí con người không thể dò được. Nhưng trong một phương thức siêu nhiên thuộc linh nào đó trổi hơn thời gian, không gian, và người nào đang đặt lòng tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên thập tự giá, chịu chôn, thì được sống lại với Cứu Chúa của người, chịu phép báp têm trong Đấng Christ".
Phép báptêm bằng nước là bước thứ nhứt trong đời sống của một tân tín hữu. Tất cả các tín đồ phải phục theo Chúa trong sự công khai tuyên xưng đức tin của họ nơi Đấng Christ qua phép báptêm của người tin Chúa. Tuy nhiên, phép báptêm bằng nước chỉ là biểu tượng của bản chất phép báptêm thuộc linh thực. Đó là một hình ảnh bên ngoài của những gì đang diễn ra ở bên trong mà thôi.
Không những chúng ta chịu "phép báptêm trong Đấng Christ" mà chúng ta còn "mặc lấy Đấng Christ" nữa. Khi một thiếu niên La mã được 14-17 tuổi, nó "đã đủ tuổi". Khi nó lớn đủ để rời khỏi phần kỷ luật của “thầy giáo”, nó phải trải qua một nghi thức gọi là toga virilis. Nó trở thành một công dân La mã trọn vẹn với mọi quyền hạn và các đặc ân của công dân đó. Người ta trao cho nó một chiếc áo choàng rộng làm biểu tượng cho sự thành nhơn của nó.
Khi chúng ta được cứu, chúng ta đã trải qua một "toga virilis thuộc linh". Chúng ta bỏ lại đàng sau luật pháp của Cựu Ước, những gông xiềng tội lỗi và người canh giữ nghiệt ngã của mình. Chúng ta trở thành những công dân thiên thượng và mặc lấy chiếc áo xống mới công bình của Đấng Christ. Chúng ta đã "mặc lấy Đấng Christ". Chúng ta đã khoác lấy Ngài rồi.
Côlôse 3.9-10 chép: "…Chớ nói dối nhau, vì đã lột bỏ người cũ cùng công việc nó, mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn".
B. Trong Đấng Christ chúng ta thảy đều làm một (câu 28).
Đây là lẽ thật thứ hai về tất cả các tín đồ. Ở phần cuối câu 28, Phaolô nói: "vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một". Đúng ra câu nầy đọc như sau: "Anh em hết thảy là một người ở trong Đức Chúa Jêsus Christ". Chúng ta không những thuộc về Đức Chúa Trời là các con trai con gái mà còn thuộc về nhau như anh chị em nữa.
Chúng ta thảy đều làm một trong Đấng Christ. Đây là lẽ đạo thường trực xuyên suốt cả Tân Ước. Đây là sự dạy chủ lực trong sách Êphêsô. Êphêsô 4.4-6 chép: "Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp tem; chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người". I Côrinhtô 12.12 chép: "Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy".
Thứ nhứt, Phaolô cho chúng ta biết CHẲNG CÓ SỰ PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC NÀO HẾT. Ông nói: "Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc…". Đức Chúa Trời đã chọn Ápraham và dòng dõi của ông người Do thái làm tuyển dân của Ngài. Tuy nhiên, trong Đấng Christ Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài với Ápraham rằng "các dân sẽ nhờ ngươi mà được phước" (câu 8). Phước nầy bao gồm cả "các dân", người ta trong từng chủng tộc, màu da và ngôn ngữ. Đức Chúa Trời có con trai con gái bởi đức tin nơi Đấng Christ trong từng nhóm dân tộc trên thế gian.
Một trong những bối cảnh cảm động nhất đối với tôi trong cả Kinh Thánh là hình ảnh thờ phượng quanh ngôi của Đức Chúa Trời trong sách Khải huyền: "Sự ấy đoạn, tôi nhìn xem, thấy vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi-phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là, cất tiếng lớn kêu rằng: Sự cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời ta, là Đấng ngự trên ngôi, và thuộc về Chiên Con" (Khải huyền 7.9-10). "Chúng hát một bài ca mới rằng: Ngài đáng lấy quyển sách mà mở những ấn ra; vì Ngài đã chịu giết lấy huyết mình mà chuộc cho Đức Chúa Trời những người thuộc về mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc, mọi nước, và Ngài đã làm cho những người ấy nên nước, và thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất" (Khải huyền 5.9-10).
Những người chủ trương ưu thế của người da trắng và nhiều người khác nữa, họ tin rằng Đức Chúa Trời yêu thương hay sẽ cứu vớt các giống người nhất định nào đó, họ chưa hề nghiên cứu kỹ Kinh Thánh.
Thứ hai, Phaolô cho chúng ta biết CHẲNG CÓ PHÂN BIỆT GIAI CẤP. "Không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ". Hãy tưởng tượng đang sống trong một xã hội nô lệ xem. Một trong số các ông chủ và một trong số các nô lệ, cả hai đều là Cơ đốc nhân và cả hai đều nhóm chung trong một hội chúng. Khi đến với Đấng Christ, họ đều bình đẳng với nhau. Trong từng hoàn cảnh xã hội của con người khi sanh ra, giàu có, đặc ân và học vấn đã phân biệt con người. Thật không phải như vậy ở trong Đấng Christ. Có người đã nói: "Mặt đất bằng phẳng ở tại chân thập tự giá".
Hội thánh, mọi người đều được hoan nghênh ở tại đây. Có những Hội thánh chỉ phục vụ cho giới giàu có hay tinh hoa của xã hội. Giacơ 2.1-9 nói tới việc đem lại sự bất công cho một người anh em nghèo hèn. Ông hỏi trong câu 5: "Hỡi anh em rất yêu dấu, hãy nghe nầy: Đức Chúa Trời há chẳng lựa kẻ nghèo theo đời nầy đặng làm cho trở nên giàu trong đức tin, và kế tự nước Ngài đã hứa cho kẻ kính mến Ngài hay sao?" Ông nói thêm trong câu 9: "Nhưng nếu anh em tây vị người ta, thì phạm tội, luật pháp bèn định tội anh em như kẻ phạm phép".
Thứ ba, Phaolô cho chúng ta biết CHẲNG CÓ PHÂN BIỆT PHÁI TÍNH. Ông nói: "Không còn đàn ông hoặc đàn bà". Quan niệm bình đẳng về phái tính không bắt đầu trong thế kỷ 20. Quyền hạn của phụ nữ không phải đã được đấu tranh trước tiên bởi những người theo chủ nghĩa tự do mà là bởi Đức Chúa Trời.
Trong các thời kỳ Kinh Thánh, phụ nữ thường bị coi là nhỏ mọn hơn cả của cải. Họ thường bị lợi dụng và ngược đãi bởi những người làm chồng của họ. Cơ đốc giáo nâng cao phụ nữ không những tới một cấp độ mới của sự tôn trọng, mà còn nâng cao tới chỗ bình đẳng với nam giới trong thân của Đấng Christ. Nữ giới và nam giới chia sẻ cùng những quyền hạn, cùng quyền lui tới và cùng mối tương giao giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời. Phierơ nhắc cho chúng ta, những ngươi đờn ông phải nhớ: "Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự ăn ở với vợ mình, như là với giống yếu đuối hơn; VÌ HỌ SẼ CÙNG ANH EM HƯỞNG PHƯỚC SỰ SỐNG…" (I Phierơ 3.7).
Chúng ta cần một lời cảnh tỉnh ở đây. Nói như vầy không có nghĩa là những phân biệt về chủng tộc, xã hội và phái tính đã bị xoá sạch đâu nhé. Cơ đốc nhân không phải "mù quáng về màu da" đâu. Họ vốn ý thức về lai lịch xã hội và văn hoá của một người. Họ không đối xử với nam giới giống như nữ giới và nữ giới như nam giới đâu. Thực ra, Đức Chúa Trời đã đặt nam và nữ giới trong các vai trò rất phân biệt ở cả gia đình và trong Hội thánh. John Stott nói: "Khi chúng ta nói Đấng Christ đã hủy hết các sự phân biệt nầy, chúng ta không có ý nói rằng chúng không còn tồn tại, mà có ý nói rằng chúng không thành vấn đề. Chúng vẫn còn ở đó, nhưng chúng không tạo ra bất kỳ một hàng rào ngăn trở nào đối với mối tương giao nữa".
G.K. Chesterson nói: "Trong Cơ đốc giáo thảy đều bình đẳng, giống như hết thảy các đồng xu đều bằng nhau, vì giá trị duy nhứt nơi bất kỳ ai trong số họ ấy là họ đang mang lấy ảnh tượng của nhà Vua". Chúng ta thực sự "thảy đều làm một trong Đức Chúa Jêsus Christ".
C. Trong Đấng Christ chúng ta là dòng dõi của Ápraham (câu 29).
Cuối cùng Phaolô nói: "Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ…" nếu quí vị được sanh lại bởi đức tin trong Chúa Jêsus, thì "anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa".
Bởi đức tin trong Đấng Christ chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời. Bởi đức tin trong Đấng Christ chúng ta cũng kế tự lời hứa ban cho Ápraham. Chúng ta có được chỗ của mình trong một hàng dài những người nam người nữ có đức tin. Chúng ta đứng chung hàng với các vị anh hùng đức tin trong Hêbơrơ 11. Giống như Abên, Hê-nóc, Nôê, Ápraham, Sara, Ysác, Gia-cốp, Giô-sép, Môise, Raháp, Ghi-đê-ôn, Barác, Samsôn, Giép-thê, David, Samuên và hết thảy các đấng tiên tri. Chúng ta đứng biệt riêng ra với người thế gian, là những người bởi đức tin là “kẻ kế tự” của Đức Chúa Trời.
Có một nhận định rất vô nghĩa trong thế hệ ngày nay. Ngày nay có nhiều người tin cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì cả, rằng chúng ta là một đống ngẫu nhiên gồm các tế bào và mô. Với thứ triết lý đó, nhiều người ngày nay cảm thấy họ không thuộc về chỗ nào hết. Họ chẳng thuộc về ai cả. Họ đang bị hư mất.
Các tin tức tốt lành của Tin Lành, ấy là trong Đấng Christ chúng ta tìm được chính mình. Kẻ chẳng thuộc về ai hết đã trở thành kẻ thuộc về. Chúng ta tìm được chỗ của mình trong CÕI ĐỜI ĐỜI là con trai con gái của Đức Chúa Trời. Chúng ta tìm được chỗ của mình trong XÃ HỘI là anh chị em trong gia đình của Đức Chúa Trời. Chúng ta tìm được chỗ của mình trong LỊCH SỬ là chi thể của dân sự Đức Chúa Trời liên tục tải xuống qua các thời đại.
Chúng ta có sự gắn bó 3 chiều kích trong Đấng Christ – chiều cao, chiều rộng và chiều dài. Chúng ta gắn bó trong CHIỀU CAO qua Đấng Christ bởi việc bước vào sự ràng buộc đời đời với Đức Chúa Trời Toàn Năng. Chúng ta gắn bó trong CHIỀU RỘNG nhờ Đấng Christ bởi việc kết hiệp làm một với hết thảy các tín hữu trong thân của Đấng Christ. Chúng ta được gắn bó ở CHIỀU CAO là một phần trong hàng dài các tín đồ qua dòng thời gian.
Khi có người hỏi: "Quí vị là ai?" Quí vị có thể trả lời thật chính xác như sau: "Tôi ở trong Đấng Christ. Tôi là con cái của Đức Chúa Trời Toàn Năng, là kẻ kế tự mọi lời hứa của Ngài. Tôi hiệp một với dân được chuộc của Đức Chúa Trời trong mọi thời đại, quá khứ, hiện tại và tương lai".
Trong Đấng Christ chúng ta tìm thấy chính mình. Trong Đấng Christ chúng ta có một lai lịch đời đời. Trong Đấng Christ chúng ta tìm được con đường của đức tin, con đường ấy dẫn chúng ta về đến quê hương thật hoàn toàn.
Có nhiều con đường chạy qua cuộc sống. Con đường quan trọng nhất mà bất kỳ ai cũng có thể đi được là con đường đức tin. Nhà truyền đạo lỗi lạc Charles Spurgeon từng nói: "Nếu quí vị không dám chắc về con đường nào trong hai con đường phải chọn, hãy chọn con đường nào có bóng thập tự giá ngã dài trên đó ".

Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2011

Galati 3.15-22: "Lời hứa và luật pháp"


Tự do thực – Galati
Lời hứa và luật pháp

Galati 3.15-22
Quí vị đã từng gặp ông chủ có tính thất thường chưa? Khi tôi còn đi học, tôi làm công cho một người chủ kia, ông ta thường thay đổi tánh ý lắm. Quí vị không sao biết được ông ta có một lý trí như thế nào đâu! Ở giây phút nầy ông ta sẽ bước tới gần rồi kể cho quí vị nghe một câu chuyện tếu, vỗ lưng quí vị rồi bật cười bỏ đi. Sau đó mấy phút thôi, ông ta sẽ quay trở lại rồi cứ lãi nhãi trước mặt mấy nhân công khác. Không cần phải nói, tính khí của ông ta được dựng nên cho một nơi làm việc đầy căng thẳng.
Một số người đã xem Đức Chúa Trời cùng một cách thức mà tôi đã nhìn xem ông chủ trước đây của tôi. Ở mặt nầy họ biết rõ Ngài là một Đức Chúa Trời yêu thương và giàu ơn, rằng chúng ta là con cái của Ngài, là con ngươi của mắt Ngài. Họ hiểu rõ Ngài là Đấng ban ra từng ân tứ tốt lành và là nguồn của mọi ơn phước chúng ta. Ở mặt kia, họ biết rõ Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời đòi hỏi thế nầy thế kia. Ngài có nhiều pháp chế, nhiều luật lệ cho lối sống của chúng ta. Thuộc về Ngài là sự phán xét nghiêm ngặt đưa đến sự xét đoán, kỹ luật và hình phạt cho sự không vâng lời.
Kinh Thánh cung ứng cho chúng ta cả hai nhận định về bổn tánh của Đức Chúa Trời. Thuộc về Ngài là sự giàu ơn và đồng thời Ngài hay bó buộc lắm. Chúng ta xem cả hai phương diện của bổn tánh Đức Chúa Trời qua hai nhân vật trong Cựu Ước, Ápraham và Môise. Ápraham đã nhận lãnh lời hứa ân điển của Đức Chúa Trời. Đối với cụ già chưa có con nầy, Đức Chúa Trời phán: "Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi….Dòng-dõi ngươi cũng sẽ như vậy". Câu kế đó cho biết: "Áp-ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người" (Sáng thế ký 15.5-6).
Qua Môise, Đức Chúa Trời đã ban luật pháp cho Israel. Ông đã lên Núi Sinai trong "sấm vang chớp nhoáng, một áng mây mịt mịt ở trên núi, và tiếng kèn thổi rất vang động; cả dân sự ở trong trại quân đều run hãi". Chúa truyền cho họ: "Khá giữ mình đừng leo lên núi, hoặc đụng đến chân; hễ kẻ nào đụng đến thì sẽ bị xử tử" (Xuất Êdíptô ký 19.18, 12). Qua Môise, Đức Chúa Trời đã ban ra luật pháp cho dân sự Ngài.
Đức Chúa Trời là Đấng đã ban ra lời hứa cho Ápraham cũng chính là Đức Chúa Trời đã ban luật pháp cho Môise. Đức Chúa Trời là Đấng đã phán theo cách riêng với Ápraham cũng chính là Đức Chúa Trời đã ban ra luật pháp qua sấm vang chớp nhoáng trên Núi Sinai. Lời hứa của Đức Chúa Trời và luật pháp của Đức Chúa Trời cùng song hành với nhau. Đức Chúa Trời không có gì phải lo buồn cả. Ngài không thay đổi ý định của Ngài. Trong bài nghiên cứu hôm nay về sách Galati, chúng ta sẽ xem xét Quyền phép Lời hứa của Đức Chúa Trời cho Ápraham và Mục đích luật pháp của Đức Chúa Trời qua Môise. Sau cùng, chúng ta sẽ xem xét một số Điểm cần phải suy gẫm.
I. Quyền phép Lời hứa của Đức Chúa Trời cho Ápraham (các câu15-18).
A. Lời hứa của Đức Chúa Trời là không thay đổi (câu 15).
Trước hết, Phaolô gọi người thành Galati là "anh em". Cho dù họ đang nghe theo các giáo sư giả, họ vẫn còn là chi thể của gia đình Đức Chúa Trời. Nguyên tắc cho chúng ta là dù khi chúng ta bất đồng với các Cơ đốc nhân khác, họ vẫn còn là anh chị em của chúng ta và chúng ta cần phải yêu thương họ.
Kế đó Phaolô nói: "tôi nói theo thói quen người ta rằng" hay theo "từ ngữ của con người". Nói cách khác, ông bắt đầu tiểu đoạn nầy với một trường hợp thực tế từ đời sống hàng ngày, một minh hoạ thông thường. Ông giới thiệu quan niệm nói về "giao ước của con người". Từ ngữ "giao ước" có ý nói tới "một lời hứa hay giao kèo bắt buộc". Từ ngữ nầy ra từ một chữ Hy lạp thông thường và được dịch là "nguyện vọng" như trong "giao ước và nguyện vọng sau cùng".
Phaolô đang nói: "Giả sử anh em đưa ra một nguyện vọng và khẳng định nó hay ký kết với nó, thế thì chẳng một ai có thể hủy bỏ hay thay đổi nó cho được". Ngày nay các nguyện vọng được đưa ra tranh cãi ở toà án để biết đúng sai. Tuần nầy tôi đọc thấy gia đình của một tỉ phú dầu hoả ở Houston là J. Howard Marshall II đang bàn cãi về nguyện vọng của ông, trong đó ông cắt đứt phần của con cái mình, rồi để tài sản kếch xù lại cho người vợ là ngôi sao đang lên có tên là Anna Nicole Smith.
Mặc dù mọi nguyện vọng thường được đưa ra tranh cãi hôm nay, một nguyện vọng đã được ký kết, được thông qua hay được "khẳng định" trong thế kỷ đầu tiên là một tài liệu không thể tranh cãi được. Đây là một vấn đề đã được định liệu rồi: "Chẳng ai được bớt ra hay thêm vào điều gì". Mục đích minh họa của Phaolô rất là đơn sơ. “Nếu có điều chi đơn sơ như ý chỉ của Con Người không thể sửa đổi được thì lời hứa của Đức Chúa Trời quả chắc chắn là dường nào?”
Các giáo sư giả trong xứ Galati, những người theo giáo Giu-đa đang nói: "Phaolô ơi, chúng ta hiểu rằng Ápraham đã nhận lãnh và tin theo lời hứa của Đức Chúa Trời. Quả thực vậy, về sau qua Môise Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta chương trình trò chơi mới, ấy là luật pháp. Ápraham có thể đã làm hoà lại với Đức Chúa Trời bởi đức tin nhưng khi luật pháp đến, mọi sự đều đã thay đổi. Giờ đây chúng ta đang làm hoà lại với Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta đang hoà thuận lại với Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ luật pháp Ngài và trở thành một dân nhơn đức”. Phaolô đang nói: "Không có cách nào khác nữa đâu! Nếu anh em không thể thay đổi được lời hứa của một người, anh em không thể làm thay đổi được lời hứa của Đức Chúa Trời! Ngài là Đấng Giữ Lời Hứa long trọng của mình".
Chúng ta hãy lưu ý một lần nữa lời hứa của Đức Chúa Trời với Ápraham từ Sáng thế ký12.2-3: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước".
Lời hứa ấy đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đấng Christ. Qua Chúa Jêsus Đức Chúa Trời khiến cho "các chi tộc nơi thế gian" sẽ "được phước". Không một người nào tự nhiên mà được phước của Đức Chúa Trời cả đâu. Chúng ta là dân Ngoại kế tự ơn phước nầy bởi đức tin nơi Chúa Jêsus. Phaolô đã nói trong câu 7: "vậy anh em hãy nhận biết rằng những kẻ có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham". Ông nói trong câu 9: "Ấy vậy, ai tin thì nấy được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin".
Hãy so sánh lời hứa của Đức Chúa Trời cho Ápraham với luật pháp của Đức Chúa Trời qua Môise. Trong lời hứa, Đức Chúa Trời phán: "Ta sẽ… Ta sẽ… Ta sẽ… Ta sẽ…". Bốn lần! Trong luật pháp Đức Chúa Trời phán: "Ngươi sẽ". Luật pháp nương theo thành tích của chúng ta. Lời hứa thì nương vào lời hứa không thể thay đổi, không biến cải, bất biến của Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời hứa lời hứa đó và Ngài sẽ làm thành nó.
B. Lời hứa của Đức Chúa Trời được ứng nghiệm nơi Đấng Christ (câu 16).
Kế đó Phaolô nói: "Vả, các lời hứa đã được phán cho Áp-ra-ham và cho dòng dõi người". "Dòng dõi" ra từ chữ sperma có ý nói tới con cháu. Đức Chúa Trời đã lập lời hứa nầy với cả Ápraham và những ai sẽ ra từ Ápraham.
Tiếp theo, vị sứ đồ nói: "không nói: Và cho các dòng dõi người, như chỉ về nhiều người; nhưng nói: Và cho dòng dõi ngươi, như chỉ về một người mà thôi, tức là Đấng Christ". Phaolô đang cung ứng cho chúng ta phần chú giải được Thánh Linh cảm thúc ở Sáng thế ký 22.18. Ông đang lý giải và ứng dụng một câu Kinh Thánh Cựu Ước.
Cụm từ "dòng dõi" trong cả tiếng Hy lạp và Hy bá lai có thể sử dụng theo hình thức số ít lẫn số nhiều. Từ ngữ theo tiếng Anh "cá" (fish) có thể là một con cá hay nhiều con cá. Bởi công tác cảm thúc của Đức Thánh Linh, Phaolô chỉ ra rằng Ápraham thậm chí không hiểu khi ông nhận lãnh lời hứa nầy. Sự ứng nghiệm trọn vẹn không nằm ở chỗ "dòng dõi" hay "nhiều người" có ý nói tới dân Israel, mà nói tới "dòng dõi" "như chỉ về một người mà thôi, tức là Đấng Christ". Sự ứng nghiệm trọn vẹn lời hứa của Đức Chúa Trời cho Ápraham không những là tạo ra một dân lớn trong xứ Palestine, mà còn cung ứng một Cứu Chúa cho thế gian trong Đấng Christ nữa!
Phaolô quay nhìn lại thật xa trong lịch sử Kinh Thánh chỗ Sự Sa Ngã, tội lỗi nguyên thủy ở trong Vườn Êđen. Trong lời rủa sả của Ngài, Đức Chúa Trời phán với con rắn, là Satan: "Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người".
Tất cả những lời hứa của Đức Chúa Trời đều được ứng nghiệm nơi Chúa Jêsus. Cách duy nhứt cho mỗi người chúng ta có thể kế tự lời hứa của Đức Chúa Trời là nếu chúng ta chịu "ở trong Đấng Christ". Các thánh đồ trong Cựu Ước đã vâng theo Đức Chúa Trời và đã nhìn thấy trước bởi đức tin về sự đến của "dòng dõi người nữ", là Đấng Christ, Đấng Mêsi. Họ đã thấy trước Thập tự giá. Chúng ta là hạng thánh đồ trong Tân Ước tin theo thập tự giá và nhận biết Chúa Jêsus đã trả giá cho mọi tội chúng ta một lần đủ cả.
C. Lời hứa của Đức Chúa Trời có trước Luật pháp (câu 17).
Kế đó Phaolô nhắc cho chúng ta nhớ rằng "luật pháp" đã đến "là sự cách sau bốn trăm ba mươi năm mới có" (chắc chắn là lâu hơn vì câu nầy đề cập tới khoảng thời gian làm nô lệ cho người Ai cập, đối chiếu Xuất Êdíptô ký 12.40; Sáng thế ký 15.13; Công Vụ các Sứ Đồ 7.6. Khoảng thời gian nầy phải gần 645 năm). Luật pháp đã đến sau lời hứa lâu, lâu lắm.
Luật pháp, là điều đã đến sau, không thể "huỷ giao ước" hay lời hứa mà Đức Chúa Trời "đã kết lập thành rồi… trong Đấng Christ". Vì nhiều thế kỷ về sau Đức Chúa Trời đã ban cho dân sự Ngài luật pháp thiêng liêng của Ngài qua Môise, chắc chắn “lời hứa cũng không có thể bị bỏ đi bởi luật pháp”.
Luật pháp của con người chúng ta thay đổi với nền văn hoá và kỹ thuật. Chúng ta tạo ra hàng ngàn điều luật mới mỗi năm, rồi thay đổi hay xoá đi hàng ngàn điều luật cũ. Có nhiều điều bất hợp pháp đối với thế hệ kia giờ đây là hợp pháp với thế hệ nầy. Nhiều điều cách đây mấy năm là hợp pháp, giờ đây lại bị cấm đoán. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời là vô hạn. Ngài không hề thay đổi. Vì lẽ đó không một lượng thời gian nào có thể thay đổi được lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không hề thay đổi và lời hứa của Ngài không thể hủy được.
D. Lời hứa của Đức Chúa Trời đặt trên bổn tánh của Ngài (câu 18).
Vị sứ đồ kết thúc tư tưởng nầy bằng câu nói: "Vì, nếu cơ nghiệp [sự cứu rỗi của chúng ta] được ban cho bởi luật pháp, thì không bởi lời hứa nữa". Nếu sự tuân giữ luật pháp có thể cứu chúng ta, thì đâu là mục đích của lời hứa của Đức Chúa Trời chứ?
Hãy hình dung quí vị sở hữu một trại chăn nuôi gia súc lớn thuộc về gia đình của quí vị qua sáu thế hệ rồi. Trại chăn nuôi đó đã được chăm sóc rồi trao tay xuống tới cha của quí vị và các tổ phụ trước ông ấy. Hãy hình dung đi, bây giờ quí vị có một đứa con trai. Ngày kia quí vị đem nó theo bên mình rồi nói: "Con ơi, con biết rõ trại chăn nuôi nầy đã được truyền qua 6 thế hệ gia đình của chúng ta. Đây là cơ nghiệp của chúng ta". Quí vị sẽ nói: "Con ơi, nếu con chịu khó làm lụng và làm cho ta được tự hào mà không phải xấu hổ, một ngày kia tất cả cơ nghiệp nầy sẽ thuộc về con" hoặc quí vị sẽ nói: "Vì con là người kế tự, một ngày kia cơ nghiệp nầy sẽ thuộc về con".
Đâu là mục đích? Quí vị không KIẾM một "cơ nghiệp", quí vị NHẬN LÃNH cơ nghiệp đó. Nếu quí vị phải làm lụng để có "cơ nghiệp", nó sẽ chẳng thực sự là "cơ nghiệp" nữa, mà nó là tiền công.
Con cái thuộc về tôi theo huyết thống. Tôi là cha của chúng. Không một điều gì có thể làm thay đổi mối quan hệ ấy. Bây giờ thì chúng đang lớn lên, chúng có thêm nhiều trách nhiệm. Chúng có thêm nhiều nguyên tắc để làm theo các việc vặt ở trong nhà. Chúng đang học biết để sống với luật pháp. Tuy nhiên, khi chúng nổi loạn và bất tuân, chúng không thôi là con cái của tôi đâu. Mối quan hệ của chúng tôi dựa theo huyết thống chớ không dựa theo sự vâng lời.
Luật pháp nương vào thành tích của con người; còn lời hứa nương vào sự thành tín của Đức Chúa Trời. Phaolô nói: "Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng lời hứa mà ban [từ ngữ rất mạnh mẽ – giàu ơn ban] cơ nghiệp cho Áp-ra-ham". Chúng ta được cứu bởi TIN THEO lời hứa của Đức Chúa Trời, chớ không phải theo SỰ VÂNG PHỤC luật pháp của Đức Chúa Trời đâu!
Hãy hình dung Đức Chúa Trời đã mời chúng ta ngồi chỗ ưu tiên một trên chuyến bay mà Ngài là phi công lèo lái phần còn lại của đời sống chúng ta. Được cứu giống như chấp nhận một vé miễn phí trên chuyến bay huy hoàng nầy. Chúng ta có mặt tại phi cảng với hai chiếc va-li quá cở, một túi quần áo, một cặp da và các thứ mà chúng ta xem là rất quan trọng. Chúng ta vất vả tại cổng, nặng nề với hành trang nầy, còn Đức Chúa Trời, Ngài phán: "Sao ngươi không để ta lo liệu hành trang ấy cho. Ngươi biết đấy, không có một giới hạn nào về hành lý cơ mà". Chúng ta nói: "Không, cảm tạ Chúa, con sẽ mang lấy hành lý của con. Ngài đã làm đủ khi mời con lên chuyến bay nầy". Chúng ta gắng hết sức phấn đấu trên chiếc máy bay để mang lấy hành lý của mình và trở thành hạng hành khách nhơn đức khi Đức Chúa Trời chỉ muốn chúng ta ngồi xuống và thưởng thức chuyến đi mà thôi. Tôi biết có nhiều Cơ đốc nhân đang gắng hết sức để hoàn thành, với luật pháp, mọi điều mà Đức Chúa Trời đã làm thành rồi với lời hứa. Nầy anh em ơi, chúng ta không những đã được cứu bởi ân điển, mà bởi ân điển ấy chúng ta còn được làm nên thánh nữa! Chúng ta không cần phải mang lấy mấy cái túi xách của mình mà chi; chúng ta chỉ cần bước lên chiếc máy bay mà thôi!
II. Mục đích của luật pháp Đức Chúa Trời qua Môise (các câu 19-22).
Tôi biết quí vị đang suy nghĩ: "Nếu chúng ta được cứu bởi lời hứa của Đức Chúa Trời, thì đâu là mục đích của luật pháp? Tại sao Đức Chúa Trời lại ban ra luật pháp chứ?" Phaolô đoán trước câu hỏi ấy.
A. Luật pháp của Đức Chúa Trời bày tỏ ra tội lỗi của chúng ta (câu 19a).
Trong câu 19, Phaolô đưa ra câu đầu tiên trong hai câu hỏi: "Vậy thì làm sao có luật pháp?" Những kẻ theo giáo Giu-đa đã tố cáo Phaolô về sự chối bỏ luật pháp, về việc xé rách những trang đó ra khỏi quyển Kinh Thánh. Họ đã nói trong Công Vụ các Sứ Đồ 21.28: "Kìa, người nầy giảng dạy khắp thiên hạ, nghịch cùng dân, nghịch cùng luật pháp…".
Ngược lại, Phaolô nói: "luật pháp đã đặt thêm, vì cớ những sự phạm phép". "Phạm phép" có nghĩa là "bước lố các đường ranh giới". Lớn lên ở miền Đông Texas, săn bắn là một phần trong đời sống của tôi. Vì tất cả đất đai đều có chủ riêng và phần lớn đều có gắn bảng chỉ dẫn, tôi phải rất cẩn thận khi vượt qua để săn bắn trên tài sản của người khác khi có thông báo sẵn rồi. Tôi làm hết sức mình để không bước qua các lằn ranh giới.
Rôma 3.20 chép: "vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi". Rôma 4.15 chép: "song đâu không có luật pháp, thì đó cũng không có sự phạm luật pháp". Rôma 7.7 chép: "Nhưng tôi chỉ bởi luật pháp mà biết tội lỗi; vì nếu luật pháp không nói: Người chớ tham lam, thì tôi đã không biết sự tham lam".
Chuck Swindoll thường thuật lại khi ông hầu việc Chúa ở miền Nam California. Ông hay lái xe qua các vườn cam trên đường đến nhà thờ. Trong mùa thu hoạch, sẽ có các đống cam to lớn ở quanh các cánh đồng. Ngày kia ông nghe thông báo trên đài phát thanh. Có một vụ mùa trái cây bội thu trong năm đó, có nhiều cam hơn là các nông gia có thể thu hoạch. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh nào thì nông dân cũng phải ra đồng để hái cam. Họ không phải lo điều chi cả. Ông nói: "Tôi chưa hề nghĩ tới việc hái cam trước đó, nhưng ý thức của tôi về luật lệ làm sản sinh ra ước muốn phải đưa tay hái các quả cam đó, ước muốn nầy không cưỡng lại được!"
Luật pháp tỏ ra tình trạng tội lỗi của chúng ta. Luật pháp không được ban ra để hiến cho sự cứu rỗi, mà để chỉ ra nhu cần của chúng ta về ơn ấy. Luật pháp không hề được dự trù để chỉ ra ai là thánh, mà chỉ ra ai là tội nhân.
B. Luật pháp của Đức Chúa Trời đã đến cách gián tiếp (các câu 19b-20).
Trong vế thứ hai của câu 19, vị sứ đồ giải thích rằng luật pháp đã "đặt thêm… cho tới chừng nào người dòng dõi [Chúa Jêsus] đến, là người mà lời hứa đã hứa cho; luật pháp được ban ra bởi mấy thiên sứ và truyền ra bởi một người trung bảo".
Đức Chúa Trời đã ban luật pháp cho Israel "bởi một người trung bảo", là Môise, mà cũng "bởi mấy thiên sứ" nữa. Dường như khi Đức Chúa Trời ở trên Núi Sinai trong sấm chớp lúc ban ra luật pháp đã có mấy thiên sứ ở với Ngài. Phục truyền luật lệ ký 33.2 chép: "Đức Giê-hô-va đã đến từ Si-na-i, Ngài từ Sê-i-rơ dấy lên trên dân chúng, chiếu sáng từ núi Pha-ran, đến từ giữa muôn vàn đấng thánh; từ tay hữu Ngài phát ra cho họ lửa của luật pháp Ngài". Êtiên đã nhắc tới điều nầy trong bài giảng của ông ở Công Vụ các Sứ Đồ 7.53: "các ngươi đã nhận luật pháp truyền bởi các thiên sứ…". Hêbơrơ 2.2 chép: "…vì nên lời thiên sứ rao truyền đã vững chắc…".
Luật pháp đã đến với Israel cách gián tiếp. Luật pháp ra từ miệng của Đức Chúa Trời "bởi các thiên sứ" rồi đến với Môise người "trung bảo" và sau cùng đến với dân sự. Khi Đức Chúa Trời ban ra lời hứa cứu rỗi của Ngài cho Ápraham Ngài đã ban ra cách trực tiếp. Câu 20 chép: "Vả, người trung bảo chẳng phải là người trung bảo về một bề mà thôi, nhưng Đức Chúa Trời chỉ có một".
Tôi ghét nhận thông tin từ người thứ nhì, thứ ba. Tôi có người bạn Mục sư hay gọi điện đến tôi luôn… phải, ông ấy không gọi tôi, ông ấy nhờ viên thư ký gọi điện cho tôi. Cô ấy nói: "Xin ông vui lòng giữ máy…". Mỗi lần ông ấy làm thế, tôi hỏi ông ta có phải ông ta đã quên cách quay số điện thoại rồi không!?!
Luật pháp là gián tiếp. Nó không phải là phương tiện truyền bá ơn cứu rỗi, mà là phương tiện tạo ra trong chúng ta một nhận thức về tội lỗi và một ước ao muốn được cứu, ước ao đó chứa lời hứa riêng tư của Đức Chúa Trời.
C. Luật pháp của Đức Chúa Trời bắt chúng ta làm phu tù (các câu 21-22).
Bây giờ Phaolô đưa ra câu hỏi thứ nhì rất rõ ràng trong câu 21: "Vậy thì luật pháp nghịch [ngược lại với hay đối ngược] cùng lời hứa của Đức Chúa Trời hay sao?" Ông trả lời cho câu hỏi nầy theo cách quả quyết: "Chẳng hề như vậy!" Tiếp đến, ông nói: "vì nếu đã ban cho một luật pháp có thể làm cho sống, thì sự công bình [ơn cứu rỗi] chắc bởi luật pháp mà đến". Nếu luật pháp có thể cứu chúng ta, chúng ta sẽ được cứu bởi luật pháp. Nhưng chẳng có một luật nào như thế được ban ra hết.
John R.W. Stott viết: "…sự thực là chẳng có ai có thể giữ được luật pháp của Đức Chúa Trời. Thay vì thế, chúng ta hạng tội nhân đang phá vỡ luật pháp ấy mỗi ngày. Vì thế luật pháp không thể xưng công bình chúng ta. Vậy thì, làm sao tạo ra một sự hài hoà giữa luật pháp và lời hứa? Chỉ bởi việc nhìn thấy con người kế tự lời hứa vì họ không thể giữ luật pháp, và họ bất khả không thể tuân giữ luật pháp làm cho lời hứa ra đáng ao ước hơn, không thể bỏ qua được".
Hãy quan sát câu 22 cho thật kỹ rồi khoanh tròn chữ "nhốt". Câu nầy chép như sau: "Nhưng Kinh Thánh đã nhốt mọi sự ở dưới tội lỗi". Chữ "nhốt" có nghĩa là: "khóa an toàn, đóng kín các cạnh thùng lại".
Tôi có một bộ còng tay. Tôi sẽ túm lấy một gã to con nhất trong hội chúng của chúng ta, rồi còng hắn lại bằng loại còng nầy. Hắn sẽ bị "nhốt", bị khoá an toàn. Đây là công việc của "Kinh Thánh", luật pháp… bắt nhốt hay bắt chúng ta làm phu tù. Luật pháp giống như một bộ còng tay, một xà lim nhà tù. Bất luận quí vị cố gắng khó nhọc là dường nào, quí vị không thể bẻ khoá được. Quí vị không thể được tự do. Mọi sự quí vị có thể làm là cầu xin sự giúp đỡ. Quí bạn tôi ở đây không thể được tự do cho tới chừng người ấy đến với tôi rồi cầu xin đưa chìa khoá cho.
LỜI HỨA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHÌA KHOÁ!!! Mục đích của luật pháp là nhốt chúng ta và trói buộc chúng ta để chúng ta kêu cầu Đức Chúa Trời cứu giúp! Khi chúng ta kêu la với Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus, Dòng Dõi, Lời Hứa buông tha cho chúng ta được tự do.
Đức Chúa Trời ban lời hứa cho Ápraham và kế đó luật pháp cho Môise. Tại sao vậy? Đức Chúa Trời phải làm cho nhiều việc ra tệ hại hơn trước khi Ngài làm cho chúng ra tốt hơn. Mục đích của luật pháp là tỏ ra chúng ta thực sự tội lỗi và vô dụng là dường nào, hầu cho chúng ta sẽ ước ao lời hứa về ân điển và ơn tha thứ của Đức Chúa Trời!
III. Hai điểm phải suy gẫm.
A. Lời hứa của Đức Chúa Trời đã và sẽ không bao giờ thay đổi.
Đức Chúa Trời hứa với Ápraham rằng Dòng Dõi của ông, trong Chúa Jêsus mọi người trên thế gian sẽ được phước. Thời gian không làm thay đổi lời hứa ấy. Luật pháp đã không làm thay đổi lời hứa ấy. Văn hoá và xã hội không thể làm thay đổi lời hứa ấy. Mọi lầm lỗi, thất bại và tội lỗi của quí vị không làm thay đổi lời hứa ấy. Quí vị chỉ phải kêu van cho có chiếc chìa khoá thôi. Giăng 1.12-13 chép: "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết [không phải vì họ là người Do thái], hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người [không phải vì họ tuân giữ luật pháp hay là người nhơn đức], nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy".
B. Một tội nhân phải bị từ chối trước khi người được cứu.
Dietrich Bonhoeffer, vị Mục sư lỗi lạc người Đức, ông đã nói nghịch lại quân Phát xít trong Đệ II Thế Chiến đã viết: "Khi người nào phục theo luật pháp, người đó mới có thể nói tới ân điển… Tôi không nghĩ là Cơ đốc nhân muốn lãnh hội Tân Ước theo cách mau mắn và trực tiếp". Stott nói thêm: "Chúng ta không thể phớt lờ luật pháp mà đi thẳng đến với Tin Lành. Làm thế là đi ngược lại với chương trình của Đức Chúa Trời trong lịch sử Kinh Thánh".
Có lẽ người ta không đánh giá đúng Tin lành vì họ chưa đánh giá đúng luật pháp. Chúng ta thường bỏ ngọc trai ở trước miệng heo (Mathiơ 7.6). Chúng không thể thấy được vẽ đẹp của ngọc trai Tin lành vì luật pháp của Đức Chúa Trời không tỏ ra cho chúng thấy sự bẩn thỉu của chuồng heo. Stott nói thêm: "Đừng đợi cho tới khi luật pháp đánh cho bầm tím thì chúng ta mới nhìn nhận nhu cầu của chúng ta về Tin lành băng bó các vết thương của chúng ta. Đừng đợi cho tới khi luật pháp bắt lấy và nhốt tù chúng ta thì chúng ta mới khao khát Đấng Christ đến buông tha cho chúng ta. Đừng đợi cho tới khi luật pháp xét đoán và giết chết chúng ta thì chúng ta mới kêu cầu Đấng Christ để được xưng công bình và sự sống. Đừng đợi cho tới khi luật pháp đưa chúng ta vào chỗ thất vọng thì chúng ta mới chịu tin theo Chúa Jêsus. Đừng đợi cho tới khi luật pháp đánh hạ chúng ta thậm chí xuống tới địa ngục thì chúng ta mới quay trở lại với Tin lành đưa chúng ta lên thiên đàng".